“Learning to know, learning to do, learning to live together and learning to be”.
Trích dẫn câu nói do UNESCO -Tổ chức Khoa học - Giáo dục của tổ chức Liên Hiệp Quốc đề xướng. Học là hoạt động thu nhận kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo do người khác truyền lại. Mục đích học tập là yếu tố quan trọng tạo ra động lực thúc đẩy và định hướng cho hoạt động học tập của con người. - Học để biết - là mục đích cơ bản nhất của việc học tập, yêu cầu người học tiếp thu kiến thức. Đó là những hiểu biết cơ bản về tự nhiên và xã hội có liên quan đến cuộc sống con người. - Học để làm - là học tập để có khả năng lao động, tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và đóng góp cho gia đình, xã hội. - Học để chung sống - là học để có khả năng hòa nhập với cộng đồng người, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó, bền vững,.. với gia đình, bạn bè, xóm làng, đồng nghiệp. - Học để tự khẳng mình - học tập để có thể phát huy, bộc lộ những khả năng lớn nhất của bản thân; để được xã hội thừa nhận những khả năng ấy từ đó khẳng định vị trí của mình trong xã hội. 31-08-2015
http://hubt.edu.vn/tin-tuc/31-08-2015/chat-luong-dao-tao-thac-si-hien-trang-va-giai-phap/40/1254/ Phạm Quang Huấn PGS,TS. Phó chủ nhiệm Khoa QLKD Yêu cầu đào tạo thạc sỹ Thạc sĩ là từ để chỉ người có học vấn rộng (thạc = rộng lớn; sĩ = người học hay nghiên cứu), dùng để chỉ một bậc học vị. Học vị thạc sĩ trong tiếng Anh được gọi là Master, một học vị trên cấp cử nhân, dưới cấp tiến sĩ. Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, học vị này được gọi là học vị "cao học". Và hiện nay nhiều người trong chúng ta vẫn sử dụng thuật ngữ này. Đào tạo thạc sĩ là để bổ sung và nâng cao những kiến thức đã học ở đại học cho học viên, hiện đại hóa những kiến thức chuyên ngành, tăng cường kiến thức liên ngành, có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành đào tạo. Những người có trình độ thạc sĩ là những người có trình độ chuyên ngành vững chắc. Sau khi được học nâng cao và cùng với kinh nghiệm làm việc đã tích lũy được, họ sẽ có thêm kiến thức liên ngành và năng lực thực hiện công tác chuyên môn cũng như nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành đào tạo. Họ là những người làm việc chủ yếu trong linh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học ( cả khoa học xã hội - nhân văn, cả khoa học kỹ thuật – công nghệ và khoa học cơ bản. Luận văn thạc sĩ: đề tài luận văn thạc sĩ là một vấn đề về khoa học, kỹ thuật hoặc quản lý cụ thể do cơ sở đào tạo giao hoặc do học viên đề xuất, được người hướng dẫn đồng ý và được hội đồng khoa học và đào tạo của khoa và của cơ sở đào tạo chấp nhận . Thực tế hiện nay Thực trạng đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ hiện nay ở nước ta đã được phản ảnh khá nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các diễn đàn khoa học chuyên ngành. Còn riêng ở trường ta người viết bài này đã có 1 bài đăng trên Bản tin của trường trước đây. Hôm nay xin cung cấp thêm một số thông tin mới được cập nhật. Mục đích đi học thạc sỹ của học viên ở ta là gì? Không thể phủ nhận một điều là đa số học viên đã có quan niệm và thực hiện đúng mục tiêu đào tạo thạc sỹ, thực sự tiếp thu được nhiều điều mới, nâng cao được kiến thức chuyên môn, và sau khi tốt nghiệp đều đã phát huy, phát triển tốt kiến thức đã học vào công việc hàng ngày của mình. Một số anh chị em phấn đấu không ngừng, tiếp tục tìm tòi, đi sâu nghiên cứu và đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ. Một số đã đi tu nghiệp ở nước ngoài và đã tỏ ra không thua kém người được đào tạo tại nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một tình trạng đáng buồn là mục tiêu đi học, chất lượng đào tạo, chất lượng luận văn đang có những vấn đề khá nghiêm trọng. Hiện nay, nhu cầu đi học sau đại học để lấy tấm bằng thạc sĩ của nhiều người ngày càng tăng. Đó là điều đáng mừng. Tuy nhiên, đối với một số người bằng thạc sỹ “hấp dẫn” chủ yếu đang chỉ bởi tư cách là “giấy thông hành” bắt buộc cho sự thăng tiến. Cũng rất đáng tiếc là số người dự định theo học sau đại học với toan tính có bằng cấp cao để dễ bề tiến thân mà không phải vì thực sự đam mê nghiên cứu khoa học ngày càng nhiều. Nhiều người thú thật “chẳng phải họ ham học gì, mà là do không tìm được việc làm nên cứ tiếp tục học”. Thậm chí có người không quan tâm xem ngành học đó có phù hợp với sở thích hay năng lực của mình không, chỉ biết rằng đi học thạc sỹ sẽ có cơ may… đổi vận. Có người tốt nghiệp ở Trung quốc về ngôn ngữ tiếng Trung về trường dạy tại khoa tiếng Trung nhưng lại học thạc sỹ chuyên ngành quản trị kinh doanh. Khi được hỏi những vấn đề cơ bản về quản trị kinh doanh học viên đó không biết gì. Hay một học viên làm việc tại khoa Công nghệ thông tin cũng học cao học quản trị kinh doanh. Vì không biết gì về quản trị kinh doanh nên khi làm tiểu luận môn học chuyên ngành đã giống bài của bạn cùng lớp và khi viết luận văn thạc sỹ đã chép toàn văn của người khác chỉ thay đổi mỗi tên đơn vị lấy tư liệu để viết và tên người hướng dẫn. Nhiều người thi vào cao học trường ta có chuyên môn không phù hợp nên phải học chuyển đổi. Đó là điều cần thiết. Nhưng điều đáng nói là số tiết học chuyển đổi đó có đủ để lấp lỗ hổng kiến thức cần có hay không. Đó còn chưa nói đến chuyện dạy ăn bơt tiết giảng ( 3 môn học trong 2 ngày),học bớt buổi. Việc dạy học cho các lớp sau đại học ở tỉnh ngoài còn tệ hơn. Có người dạy thì ít mà đi nhậu với học sinh thì nhiều. Trò thường mời thầy đi ăn nhậu như một thứ luật bất thành văn. Vì dạy như thế nên thạc sĩ học cũng lơ mơ hoặc không hiểu gì cả. Có người đi dạy ngoài tỉnh đã tranh nghỉ ngơi luôn thể. Ở bậc cao học, sự dễ dàng bắt đầu ngay từ đầu vào. Vào cao học chỉ phải thì 2 môn và chỉ cần đạt 10 điểm là đủ để trúng tuyển. Kỳ thi đầu vào cao học khóa 10 năm nay cho kết quả rất tốt: Chuyên ngành quản trị kinh doanh đỗ 99,6% ; Chuyên ngành Tài chính ngân hàng kế toán: 99%, còn ngành kỹ năng phần mềm: 97,6%. Kết quả thi tiếng Anh còn ấn tượng hơn. Thí sinh đã thi đều đạt từ 51 đến 93/100[1] điểm. Tôi xin được không bình luận về kết quả này. Năm nay chúng ta có (đợt 1) hơn 500 học viên cao học. Thế là, một bên là nhà trường có học viên; một bên là người học muốn có bằng- thôi thì, đôi bên cùng có lợi! PGS-TS Đỗ Văn Xê[2], Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ cho biết: Rất nhiều người học thạc sĩ nhằm đạt “những tiêu chuẩn” để sắp xếp, bố trí vị trí công tác mà cơ quan, đơn vị đã bổ nhiệm. Theo học vì mục tiêu “giữ ghế” thì nguy cơ bằng thật học giả, học thuê và thuê – thuê học và lãng phí tiền ngân sách là khó tránh khỏi. Tại một lớp học khóa 7 mà tôi đã dạy có 53 học viên mà đã có tới 6 người học thuê. Chất lượng học và luận văn Theo đuổi những mục tiêu như trên, lại học trong điều kiện khi đào tạo Thạc sĩ ở Việt Nam là đào tạo ngoài giờ (trường ta học vào thứ bảy và chủ nhật) không có sự quản lý chặt chẽ (cả tự quản và bị quản) cho nên dự giờ không đều, nghe giảng và làm bài không nghiêm túc. Đó là chưa nói đến việc tự học và tự nghiên cứu đã được đặt ở hàng thứ yếu. Tôi đã từng được mời giảng dậy một số môn cho cao học. Qua thực tế tôi chưa thấy có lần nào cao học sinh đi dự giờ đầy đủ (thường là chỉ vào khoảng 60 -70%, đó là chưa kể sau khi điểm danh thì bỏ về). Đó là chưa kể trong khi nghe giảng còn làm những chuyện không liên quan gì đến buổi học. Học như thế thì tất yếu dẫn đến kết quả học tập không cao. Tôi có thể nêu ra một vài con số. Tôi cho học sinh làm bài kiểm tra tại lớp. Khi chấm bài tôi thấy số lượng học viên chép 100% bài của nhau là 12 /39 bài kiểm tra. Trong một lớp học khác, tình hình còn kém hơn. Lớp có 46 học viên, khi làm tiểu luận môn học có tới 19 bài bị điểm “không” ( trong đó 10 bài giống nhau 100%, ); nếu tính tất cả số bài không đạt yêu cầu thì có tới 27 bài , tức là gần 59%. Cần lưu ý rằng các bài tiểu luận đều được chuẩn bị và viết ở nhà rồi sau đó đem nộp cho giáo viên. Thế còn chất lượng luận văn thì sao? Dư luận nói rằng chất lượng không ít các luận văn đều qua công nghệ “xào nấu” (copy and paste). Trong thực tế khi được đọc các luận văn lần đầu do cao học viên thực hiện, cũng như khi đọc phản biên luận văn tôi cũng có những nhận xét tương tự. Có học viên không viết nổi đề cương một luận văn, khi hỏi thế nào là môi trường vĩ mô và môi trường vi mô (học viên viết trong đề cương) cũng không trả lời được. Thậm chí có những luận văn được sao chép gần như hoàn toàn chỉ qua một năm mà không hề bị phát hiện. Có Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ cho 5 học viên trong đó có tới 3 luận văn mà thành viên Hội đồng thấy không đạt yêu cầu. Có học viên đi thuê người viết luận văn nhưng sau lại không trả tiền thuê nên bị kiện có. Tôi còn đọc được trên facebook của Viện sau đại học bài quảng cao viết thuê luận văn cao học (Luận văn cao học 119). Bài này đã bị xóa sau khi tôi lên tiếng. Trong vấn đề này lỗi của học viên là chủ yếu ( quá kém, không viết nổi luận văn) nhưng có phần lỗi do người hướng dẫn khoa học (chưa đủ trình độ về mặt chuyên môn trong lĩnh vực đề tài được phân công hướng dẫn hoặc quá tắc trách, thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ được phân công). Ngoài ra, sự “lọt lưới” của những luận văn như thế còn do không có khâu kiểm định ở cấp bộ môn hay phân viện trước khi luận văn được nộp để làm thủ tục bảo vệ ( Các trường khác nhất thiết phải có khâu kiểm định này). Sang đến khâu bảo vệ luận văn. Đây là khâu cuối cùng trong lịch trình học cao học của học viên. Đến được khâu này thì học viên đã 90% cầm chắc sẽ có được tấm bằng tốt nghiệp cao học. Tuy nhiên đối với không ít học viên khâu này đã không qua chót lọt: Hội đồng chấm luận văn không đồng ý cho bảo vệ vì luận văn không đáp ứng được yêu cầu chất lượng đề ra; Học viên không biết trình bày luận văn,không trả lời được được những câu hỏi của Hội đồng có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn. Trong một lần bảo vệ có 5 luận văn, Hội đồng đã quyết định không cho bảo vệ hai luận văn, ba luận văn còn lại cũng có chất rất kém, nhưng chẳng lẽ lại không cho bảo vệ tiếp! Thôi đành cho bảo vệ. Khi lên bảo vệ có học viên không trả lời được bất cứ câu hỏi nào liên quan đế luận văn của Hội đồng, kể cả những câu hỏi của các thầy giáo phản biện đã cho trước. Có học viên viết về “Lao động và các biện pháp nâng cao chất lượng lao động tại…” nhưng không trả lời được câu hỏi: năng suất lao động là gì và cách tính năng suất lao động thế nào? V v… Liên quan đến luận văn cao học có vấn đề về đề tài. Có những tên đề tài đưa ra bảo vệ trước hội đồng nghe rất khó hiểu kiểu như: Tăng cường phát triển…; Lao động và giải pháp nâng cao chất lượng lao đông…; Phân tích công việc và bố trí lao động hợp lý trong doanh nghiêp…; Phân biệt chức năng quyền chủ sở hữu vốn nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với một doanh nghiệp…v.v… Có vấn đề này vì quy trình đăng ký và xét duyệt, quyết định đề tài chưa được tiến hành một cách nghiêm túc. Tên đề tài luận văn cuối cùng chỉ còn là sự thỏa thuận giữa giáo viên hướng dẫn và học viên. Một vấn dề nữa cũng rất bức xúc. Nhiều học viên cao học rất lười tìm kiếm tài liệu hoặc không biết cách kiếm tài liệu. Nhiều người có tài liệu mà ...không cần đọc, không thích share, không ứng dụng. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng nghiên cứu khoa học - vốn được coi là bắt buộc đối với bậc cao học. Thậm chí có khá nhiều học viên không biết cách viết tài liệu tham khảo hay chỉ viết để lấy có mà không xử dụng gì. Hầu như học viên không dùng các công cụ thống kê, toán kinh tế vào các nghiên cứu của mình, chưa biết bất cứ một công cụ xử lý số liệu nào. Ngày nay các công cụ này đã có những phần mền thích ứng đối với nghiên cứu kinh tế nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Thí dụ, Sản phẩm SPSS được viết tắt từ Statistical Products for the Social Services, có nghĩa là Các sản phẩm Thống kê cho các dịch vụ xã hội. SPSS là một hệ thống phần mềm thống kê toàn diện được thiết kế để thực hiện tất cả các bước trong các phân tích thống kê từ những thông kê mô tả (liệt kê dữ liệu, lập đồ thị) đến thống kê suy luận (tương quan, hồi quy…). Đó là chưa kể các phần mềm khác như: STATA, EVIEW, AMOS và các công cụ khác nữa. Trong số các luận văn mà tôi hướng dẫn hay phản biện không có bất cứ học viên nào sử dụng các công cụ đó. Không rõ học viên có được trang bị những kiến thứcnàykhông? Thử đi tìm nguyên nhân và kiến nghị các giải pháp. Ngày 15 tháng 05 năm 2014 bằng văn bản số: 15/2014/TT-BGDĐT, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ. Trong văn bẳn này tại Điều 2 ghi rõ mục tiêu đào tạo là: Đào tạo trình độ thạc sĩ nhằm giúp cho học viên bổ sung, cập nhật và nâng cao kiến thức ngành, chuyên ngành; tăng cường kiến thức liên ngành; có kiến thức chuyên sâu trong một lĩnh vực khoa học chuyên ngành hoặc kỹ năng vận dụng kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn nghề nghiệp; có khả năng làm việc độc lập, tư duy sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc ngành, chuyên ngành được đào tạo”. Rõ ràng là mục tiêu đào tạo ở đây chỉ đơn thuần về mặt chuyên môn. Những người được đào tạo chỉ với mục tiêu như vậy chưa chắc đã có lợi hay ngược lại có hại cho xã hội, cho đất nước, họ có thể làm tốt công tác chuyên môn nhưng phục vụ cho ai, cho xã hội, cho đất nước hay cho những người không phải là bạn? Trình độ học vấn càng cao thì cái tâm phải càng sáng, tính trung thực trong khoa học phải càng cao. Tác hại đem lại cho xã hội của người có trình độ học vấn cao lớn hon rất nhiều so với người có trình độ học vấn thấp. Tôi không tin rằng một người đã có hành vi gian lận trong học tập lại có thể trong sáng ngòai đời, trung thực trong cuộc sống. Do đó cần thiết phải căn chỉnh lại mục tiêu đào tạo thạc sỹ nói trên. Phải theo khuyên bảo của Tổ chức văn hóa giáo dục khoa học quốc tế (UNESCO) : “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để thành người” Mặt khác, với cách vừa học vừa làm thì không thể đòi hỏi học viên cao học đọc tài liệu trước khi đến lớp vì họ cũng phải đi làm để trang trải cuộc sống và tiền học. Thử hỏi trong điều kiện như thê học viên liệu có thể tiếp thu bài giảng tốt không? Vả lại, nếu giảng viên đòi hỏi quá cao thì học viên cũng không chịu nổi áp lực, cho dù học viên cũng muốn đi học để có thêm nhiều kiến thức (ngoài chuyện bằng cấp). Vấn đề này là tình thế lưỡng nan của học viên và giảng viên. Nếu chúng ta đào tạo tập trung thì chất lượng sẽ cải thiện thêm nhiều. Theo chúng tôi, cách tốt nhất để nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ là không học theo kiểu vừa làm vừa học mà học tập trung, học viên đi học phải có giấy phép đi học hay xin nghỉ việc để đi học. Thực tế hiện nay, nhu cầu đi học thạc sĩ là có thật và đây là điều đáng mừng. Tuy nhiên, để hạn chế những vấn đề bất cập trong hệ đào tạo này, trước tiên chúng ta phải làm tốt từ khâu tổ chức đến quản lý. Nếu tổ chức tốt đội ngũ giảng dạy (đủ mạnh và giỏi về chuyên môn), chương trình, các điều kiện đảm bảo chất lượng thì chắc chắn quản lý đào tạo sẽ tốt. Mặt khác cần phải nâng cao chất lượng đầu vào. Nếu các khâu này đều làm tốt, chặt chẽ, nhất định chất lượng đào tạo thạc sĩ của chúng ta sẽ như mong muốn. Để khắc phục tình trạng luận văn đưa ra bảo vệ không đạt yêu cầu, đề nghị trước khi làm thủ tục bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn nhất thiết luận văn phải được thẩm định,đánh giá ở cấp bộ môn hoặc phân khoa chuyên ngành. Viện đào tạo sau đại học đã được thành lập 10 năm rồi, đã đến lúc cần có phần mềm quản lý các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ của trường đào tạo để quản lý tốt hơn. Theo đó tất cả các luận văn đã bảo vệ đều được lưu vào trong máy tính có mã số để tiện tra cứu. Đó cũng là một công cụ để kiểm tra sự trùng lắp của các luận văn ( một phần hay toàn bộ) Về đội ngũ giảng viên: Giảng viên của trường có thể đảm nhận được tất cả các môn học trong chương trình đào tạo. Đấy là thuận lợi lớn. Tuy nhiên nếu một người dậy quá nhiều môn, biên tập quá nhiều tài liệu, giáo trình thì sẽ ảnh hường đến chất lượng Có giảng viên đăng ký dậy tới 8 môn chuyên ngành, có giáo sư chủ biên hang chục cuốn sách dạy cao học. Vẫn còn nhiều giảng viên chưa quan tâm tới NCKH nên kiến thức thực tiễn, kiến thức mới hiện đại chưa được cập nhật thường xuyên. Có không ít giảng viên còn xa lạ với Internet thì làm sao cập nhật được thông tin kiến thức mới.Với sự phát triển khoa học công nghệ như hiện nay, đã đến lúc không thể thỏa mãn với những kiến thức đã tích lũy được. Tất cả những điều này tất nhiên sẽ ảnh hưởng tới chất lượng chuyên môn trong giảng dạy, đặc biệt trong hướng dẫn học viên thực hiện đề tài luận văn. Một số giảng viên do tham gia giảng dạy quá nhiều, chưa thường xuyên trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn; hạn chế về ngoại ngữ cũng gây khó khăn cho việc tiếp cận với công nghệ và phương pháp giảng dạy mới; khâu kiểm tra, đánh giá cho điểm đôi khi chưa sát ../. Phạm Quang Huấn PGS,TS. Phó chủ nhiệm Khoa QLKD PetroTimes 24/01/2014 06:45
http://www.baomoi.com/Dai-hoc-ngoai-cong-lap-Cai-chet-duoc-bao-truoc/c/12973357.epi (PetroTimes) - Sau 20 năm hình thành và phát triển theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của Nhà nước, các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) ngoài công lập (NCL) Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc tạo thêm nhiều cơ hội được học tập và việc làm cho hàng chục vạn người. Tuy nhiên, bên cạnh những trường có thành tích xuất sắc, có không ít trường không tuyển được thí sinh, bị đình chỉ hoạt động do mâu thuẫn, tranh chấp hay thiếu nhà đầu tư… thậm chí có trường đang đứng trước nguy cơ đóng cửa. 20 năm vẫn chưa khẳng định uy tín Hơn 20 năm xây dựng và phát triển hiện đã có hơn 80 trường ĐH, CĐ NCL, các trường đã đóng góp đáng kể cho nền giáo dục nước nhà, chiếm 1/5 số trường và gần 1/7 số sinh viên cả nước. Tuy nhiên, mặc dù có thời gian hoạt động và phát triển khá lâu, nhưng hầu hết các trường ĐH, CĐ NCL vẫn chưa khẳng định được chất lượng, uy tín của mình và không thu hút được thí sinh trong mỗi mùa tuyển sinh. Nguyên nhân của tình trạng này phải kể đến định kiến xã hội khá nặng nề đối với các trường dân lập, tư thục. Về cơ bản, “tâm lý người dân” chuộng những trường công lập với sự ổn định trong đào tạo, đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Vì thế, xã hội luôn cho rằng vào trường ĐH NCL là kém chất lượng, không có cơ hội tìm việc làm. Ngoài một vài trường cố gắng tạo dựng thương hiệu, củng cố đội ngũ giáo viên và nâng cao chất lượng giảng dạy như Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Đại học Thăng Long, Đại học Dân lập Hải Phòng, Đại học Duy Tân, Đại học Quốc tế miền Đông... hầu hết các trường ĐH, CĐ NCL khác đều không có tên tuổi, yếu kém trong giảng dạy. Các sinh viên xuất thân từ trường này cũng chưa chứng tỏ được khả năng của mình, bằng chứng là có rất hiếm (thậm chí là chưa có) sinh viên đến từ khối ĐH, CĐ NCL nào có tên trên bảng vàng thành tích của nước nhà. Thậm chí nhiều trường còn “mượn” trường, “thuê” thầy để mời chào thí sinh và “qua mặt” Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT). Bản thân GS Trần Phương (Hiệu trưởng ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội) cũng thẳng thắn thừa nhận: “Có trường ở tỉnh Nam Định đặt vấn đề “mượn” giảng viên của ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội để mở ngành học nhằm qua mặt Bộ GD&ĐT. Lại có trường phải “thuê” một giáo sư chuyên ngành hóa học làm hiệu trưởng dù trường hoàn toàn không đào tạo ngành này. Có trường còn “mượn” sinh viên của trường khác để đào tạo!”. Cần phải khẳng định, các trường không đầu tư cơ sở vật chất không phải do thiếu tiền. Trên thực tế, tổng số vốn hoạt động của các trường tăng đều đặn hàng năm, trong đó nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận của một vài trường tăng cao nhất với mức 1,8 lần trong 3 năm. Nhiều trường sau một thời gian ngắn hoạt động đã có tích lũy nhưng không đưa vào đầu tư mà đem gửi ngân hàng để thu lãi hằng tháng. Trong khi đó, quy mô tuyển sinh mỗi năm đều tăng, số lượng sinh viên mỗi trường ngày càng nhiều, nhưng cơ sở vật chất trường lớp thì vẫn không được đầu tư tương xứng. Ngoài ra, việc các trường NCL “chạy đua” mở ngành đào tạo, không có quy hoạch cụ thể cũng là một trong những lý do khiến chất lượng đào tạo của các trường NCL không được đảm bảo. Không ít người trong cuộc đã phải thốt lên “chưa bao giờ việc tuyển sinh của các trường ngoài công lập lại khó khăn như hiện nay”. Trước nguy cơ đóng cửa, một số trường đã “làm liều” bằng cách tuyển cả những thí sinh không đủ điều kiện. Lý lẽ mà họ đưa ra là thà chịu phạt để tồn tại, còn hơn phải đóng cửa, tức đồng nghĩa với việc mất hết vốn liếng. Điều này lại càng làm cho định kiến của xã hội về các trường ngoài công lập trở nên xấu hơn. Bên cạnh đó, những bất ổn từ bên trong các trường ĐH NCL cũng là một trong những lý do khiến các trường này mất ổn định, là căn cơ làm giảm sút uy tín trường ĐH NCL, người học không tìm đến. Có không ít các trường xảy ra mâu thuẫn về quyền lợi, nảy sinh mất đoàn kết, ở một số trường các nhà đầu tư tài chính thuần túy nắm quyền làm chủ hoàn toàn, các nhà giáo, nhà khoa học trở thành người làm thuê. Chính vì những sai phạm trong đào tạo, bất cập trong quản lý, rất nhiều trường đã bị Bộ GD&ĐT đình chỉ tuyển sinh. Có thể nêu ra đây một số cái tên như Trường ĐH Hà Hoa Tiên, Trường ĐH Hùng Vương TP HCM, Trường ĐH Văn Hiến, CĐ ASEAN… Kinh doanh giáo dục lỗ nhiều lãi ít Theo quy chế ĐH dân lập, nguồn thu của trường bao gồm: nguồn thu tại trường (học phí, lệ phí, giá trị hợp đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãi tiền gửi ngân hàng, thanh lý tài sản…); vốn góp của các tổ chức cá nhân (nhà đầu tư) để đầu tư và phát triển trường; nguồn tài trợ, viện trợ, quà tặng; vốn vay… Tuy nhiên, đa số các trường NCL được thành lập với số vốn đầu tư ít ỏi ban đầu, sau khi tuyển sinh thì dựa hẳn vào nguồn thu học phí và lấy nguồn thu này nuôi lại tất cả bộ máy, hoạt động của nhà trường. Trong đó, điều đáng bàn nhất chính là dù có nguồn thu hàng năm cực lớn, nhưng mức chi thực tế cho mỗi sinh viên lại rất thấp. Với mức học phí phải đóng lên tới hơn 15 triệu đồng/năm (bình quân chung) trong khi số học phần hoặc tín chỉ được học của sinh viên trong 4 năm (chưa tính cắt ngang, cắt dọc) khoảng 100-120 tín chỉ thì chi phí cho một sinh viên là rất thấp, không quá 20 triệu đồng (cộng cả 2% chênh lệch). Với mức chi này, khả năng nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường ĐH dân lập - tư thục là hết sức khó khăn. Trên thực tế, nhiều trường NCL đang được mở dường như chỉ nhằm mục đích kinh doanh chứ không phải để phục vụ cho quốc sách giáo dục. Không ít trường ĐH mới thành lập không có triển vọng của một trường ĐH vì không có giảng viên, thậm chí không có cả trường lớp, chủ yếu đi thuê mướn. Như vậy, các trường này hầu như chỉ nhằm mục đích lợi nhuận, không chú trọng tái đầu tư. Họ tìm mọi cách để xin nhiều chỉ tiêu, thu học phí cao nhưng số tiền thu về không tập trung xây trường, đầu tư trang thiết bị phục vụ việc giảng dạy… Việc làm đó thực chất là kinh doanh giáo dục. Chính việc trục lợi giáo dục như một hình thức kinh doanh lợi nhuận cao mà không tập trung nâng cao uy tín và chất lượng giáo dục, nhiều trường đã phải đứng trước bờ vực phá sản, thậm chí phải bán trường để trả nợ như trường hợp ĐH Văn Hiến TP HCM và Trường Trung cấp Trường Sơn (tỉnh Đắk Lắk). Về tình trạng lợi dụng giáo dục để kinh doanh, dẫn tới việc nhiều trường phải bán tống để trả nợ, GS Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam bức xúc: “Ngay từ khi có tư tưởng thị trường hóa giáo dục đã phải tính đến chuyện nếu phá sản học sinh sẽ đi đâu? Đầu tư vào giáo dục không giống doanh nghiệp, doanh nghiệp nếu phá sản, thiệt hại chỉ ở phạm vi hẹp mang tính nội bộ. Trong khi đó, giáo dục liên quan đến cả nghìn gia đình, nếu phá sản thì giải quyết thế nào?”. Trước tình hình hoạt động “đìu hiu” của các trường ĐH, CĐ NCL, ông Lê Văn Học (Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội) nhận định: “Đến thời điểm này, xã hội đã nhận thức rất rõ là mình không thể trả học phí cao hơn trường công lập rất nhiều để vào một nơi mà không có trường, phải đi thuê; đội ngũ giảng viên cũng gần như đi thuê. Người học không thể chấp nhận tình trạng đó mãi: học phí thì cao, cơ sở vật chất và đội ngũ thì tạm bợ trong khi cũng chưa có gì bảo đảm về việc làm sau khi ra trường”. Mặc dù các trường ĐH, CĐ NCL vẫn đang “kêu khổ” về việc bị Bộ GD&ĐT “đẻ mà không nuôi”, không được hỗ trợ như các trường công lập; nhưng việc thiếu những định hướng giáo dục, không chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ và chất lượng giảng viên yếu kém chính là những nguyên nhân khiến thí sinh quay lưng với những trường này. Như vậy, chính việc không chú trọng đến công tác đào tạo, không tạo được uy tín và niềm tin đối với sinh viên, phụ huynh và xã hội chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các trường NCL “đói” người học như thời gian vừa qua. Nếu không nhanh chóng thay đổi phương pháp đào tạo, ngành đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng nhu cầu của xã hội, các trường ĐH, CĐ NCL sẽ nhanh chóng bị đào thải, sáp nhập hoặc giải thể và “cái chết” của những trường này là điều đã được báo trước và không thể tránh khỏi. Khánh An Đức là cách cư xử, là thái độ tốt đẹp, hợp đạo lý (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín - là 5 đức cơ bản) Nhân ngày lễ, xin kể 2 việc, của chính mình, để tôn vinh và tưởng nhớ về một người Thầy, trong rất nhiều Thầy mà thế hệ chúng tôi may mắn đã được gặp. Cách nay hơn 20 năm (1986), để mở màn cho lớp CKI GMHS đầu tiên tại ĐH YD Tp HCM, Bộ môn mời Thầy vào dạy về một loạt bài như "Shock, Những tiến bộ mới của GMHS, Suy thở, Thăng bằng kiềm toan, Suy thận cấp sau mổ và chấn thương, Tình hình GMHS Thế giới & Việt nam...", chỉ được gần gũi sơ giao vào các lần Thầy giúp sửa máy thở cho Khoa GM... Đúng ngày 20/11/1986, Thầy giới thiệu nội dung Hội nghị GM thế giới họp tại Malaixia năm 84, về Gây mê & Dioxin..., cho Lớp chúng tôi, cho Hội GMHS TP và cho cả các Thầy thuốc mọi chuyên khoa tại ĐH YD TP; chúng tôi thì ngồi lẫn với các Thầy của các BM khác tại hội trường lớn; nội dung các bài dài, hay và Thầy miệng nói tay viết suốt buổi (làm gì có chiếu từ CPU như nay); cũng như mọi khi, chẳng bài nào thầy có giáo trình, toàn nhớ nằm lòng, nhưng nội dung và cách trình bày thật tuyệt vời, chỉ xin trính một câu nghe được từ Gs H - thuộc tầm 'cây cao bóng cả' nhất SG thuở đó: "Thật đúng là thầy của thầy!". Vài năm sau, tôi được ra Đoàn 871 BQP để đi nước ngoài, do có đề tài, lại được thông qua Đề cương tại HVQY..., nên đã đến nhờ Thầy việc khó - là chứng hồ sơ để thành bs dân y! (do đi theo đường của Bộ Y Tế nên phải thế - nếu muốn chuyển làm đề tài); Thầy đã bằng uy tín của mình vừa giúp chứng nhận lý lịch cho thành Bs của Bv VĐ; lại còn bầy cách để khi ở nước ngoài làm gì để sống mà khỏi phải đi bốc vác, và nếu không có thầy bên đấy giúp cho làm đề tài này - thì làm đề tài nào khác... và những việc này, đến cha ruột cũng còn ngại, cũng còn khó làm được chu toàn đến thế! (và ai từng là học trò Thầy, thì đều biết rằng, dù chỉ mang một gói bánh nhỏ đến để cảm ơn thôi, cũng đã bị Thầy Cô la mắng rồi đấy !)... Nhân ngày 20/11 hàng năm, chỉ xin nêu 2 câu chuyện nhỏ như thế này, để tôn vinh, và thay cho hương thơm, thắp lên tưởng nhớ về một trong những người Thầy của chúng tôi - đó là Thầy TÔN ĐỨC LANG - Kính mong Thầy ở dưới 'suối vàng', luôn yên dạ là ở trên cõi đời này, còn có những đồng nghiệp và những học trò như chúng ta... Đăng lại 20th November 2015 bởi nguyen phuc Hoc (PS: Thời đó khó khăn quá ... nên đến giờ dù đã tìm mọi nơi mà tôi vẫn chưa có bức ảnh nào riêng của Thầy để đưa vào bài này!. Vậy các bạn bè thầy cô ai có hình rõ của Thầy cho tôi xin với - chân thành cảm ơn). Một học giả nổi tiếng người Trung Hoa đã từng đăng một bài dài, với nội dung:
“Vì sao Trung Quốc chưa có giải Nobel ? Trong 60 năm kể từ ngày thành lập nước CHND Trung Hoa đã có 10 người Hoa đoạt giải Nobel: Lý Chính Đạo, Dương Chấn Ninh, Đinh Triệu Trung, Lý Viễn Triết, Chu Khang Văn, Thôi Kỳ, Đại Lai, Cao Hành Kiện, Tiền Vĩnh Kiện, Cao Côn; trong đó Đạt Lai (Nobel Hòa bình) và Cao Hành Kiện (Nobel Văn học) do có vấn đề chính trị nên hiện nay chưa được Trung Quốc thừa nhận. Một học giả Trung Quốc nhận xét: 60 năm qua chúng ta chưa có thành tựu khoa học tự nhiên và xã hội nào sánh được với thành tựu của các chủ nhân giải Nobel; chưa nhà văn nào có tác phẩm xứng đáng xếp vào cánh rừng văn học thế giới ... (Đăng 13/05/2011/ Tác giả Huy Đường) “ Thế nhưng khi Trung Hoa có giải Nobel về khoa học – họ lại không hồ hởi, bởi vì sao?. Tổng hợp tin tức từ China, thấy nổi lên một số nguyên nhân như sau: 1. Bà là một nhà nghiên cứu “thầm lặng” - Giáo sư “no” Tiến sĩ. GS Đồ từng được Nhân dân Nhật báo miêu tả trong một bài viết năm 2011 là một nhà nghiên cứu làm việc một cách ” thầm lặng”, không giỏi xây dựng các mối quan hệ xã hội”, và “dám nói thẳng với” cấp trên thay vì bợ đỡ nịnh hót. Khác với nhiều giáo sư và viện sĩ nổi tiếng, bà Đồ U U xưa nay không được giới truyền thông Trung Quốc quan tâm đến. Bà chào đời ngày 30/12/1930 tại thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Năm 21 tuổi (1951) vào Đại học Y khoa Bắc Kinh. Sau khi tốt nghiệp năm 1955, bà học thêm hai năm rưỡi y học Trung Hoa (Trung y). Từ 1965-1978, bà là trợ lý giáo sư tại Học viện Y học cổ truyền Trung Quốc, từ 1979 đến 1984 là Phó giáo sư, năm 1985 là giáo sư tại Học viện này. Hiện nay bà là Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu dược chất Artemisinin chiết xuất từ loại dược thảo Thanh hao, còn gọi là thanh cao. Năm 1980 bà được mời làm hướng dẫn nghiên cứu sinh thạc sĩ, năm 2001 hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. 2. Bà Đồ U U là nhà khoa học có rất ít bài báo đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế. Luận văn gần đây nhất của bà là The discovery of artemisinin (qinghaosu) and gifts from Chinese medicine (Phát hiện chất Artemisinin – Thanh hao – món quà tặng của y dược Trung Hoa) từng đăng trên http://www.nature.com ngày 11/10/2011. Nội dung như sau: “Tôi suốt đời tham gia nghiên cứu thảo dược Trung Quốc ở Viện Khoa học Y học Trung Quốc. Từ năm 1959 đến 1962, tôi tham gia lớp đào tạo Trung Y dành cho các bác sĩ biết Tây Y, điều đó dẫn tôi đến kho tàng quý báu của thảo dược Trung Hoa. Năm 1967, Trung Quốc khởi động Dự án 523 toàn dân chống sốt rét. Chúng tôi từng điều tra hơn 2.000 loại thảo dược, chọn ra 640 bài thuốc có thể chữa sốt rét. Cuối cùng, từ 200 loại thảo dược, chúng tôi chiết xuất được 380 chất dùng để thí nghiệm chống sốt rét trên chuột bạch, nhưng tiến triển không thuận lợi. Bài thuốc của Cát Hồng (葛洪), nhà y học nổi tiếng thời Tây Tấn (265-317), đã đem lại cảm hứng cho tôi. Ngày 04/10/1971, lần đầu tiên tôi thành công dùng Ether có điểm sôi thấp chiết xuất được chất tố Thanh hao (Artemisinin), khi đưa vào làm thí nghiệm, chúng tôi quan sát thấy chất này có tỷ suất ức chế vi trùng sốt rét đạt 100%. Đây là bước ngoặt giải quyết vấn đề, nó xuất hiện sau 190 lần thất bại. Chất Thanh Hao đã hoàn toàn thành công khi thí nghiệm điều trị sốt rét trên động vật, như vậy khi tác dụng lên cơ thể loài người, liệu có an toàn hay không? Để xác định vấn đề này một cách nhanh nhất, tôi và các đồng nghiệp đã dũng cảm làm người tình nguyện đầu tiên thử nghiệm ngay trên cơ thể mình. Đây là biện pháp duy nhất để mọi người tin rằng dùng thảo dược có thể chữa được bệnh sốt rét, vì hồi ấy chưa có quy trình đánh giá hiệu quả lâm sàng và tính an toàn của dược phẩm. Sau khi thí nghiệm thành công trên cơ thể mình, nhóm dự án chúng tôi thâm nhập vùng Hải Nam khảo sát thực địa. Chúng tôi dùng thử thuốc cho 21 bệnh nhân sốt rét và phát hiện chất Thanh hao có hiệu quả lâm sàng kỳ diệu bất ngờ trong điều trị bệnh này…”. 3. Tại Trung Quốc, thành tựu của bà lại bị chỉ trích bởi các đồng nghiệp, truyền thông nhà nước và chính quyền Trung Quốc!. Trung Quốc cuối cùng đã có một giải Nobel trong lĩnh vực khoa học – lại là lĩnh vực danh giá và khó khăn nhất (xem thêm bài : Các giải Nobel và qui trình bầu chọn), nhưng tại sao giới lãnh đạo và cộng đồng khoa học của Trung quốc lại không hề vui vẻ với sự kiện này!?. - Thứ nhất: Phản ứng của họ với giải Nobel của bà Đồ - phần lớn liên quan đến nền khoa học Trung Quốc. Đây là một hệ thống khoa học mà bà Đồ gần là một kẻ hoàn toàn xa lạ, do đó khi bà đoạt giải đã khiến tất cả phải lúng túng trước thành công của bà. Thành tựu của bà Đồ rất đáng trân trọng vì bà không thuộc những “Viện nghiên cứu khoa học hàng đầu của quốc gia”, không theo đuổi “học vị tiến sĩ” và không “du học” – Bà là một nhà khoa học “Ba Không”. Truyền thông Trung Quốc không phản ứng tích cực trước thành tựu của bà Đồ vì bà chỉ có địa vị bình thường, và thưc tế thành tựu của bà đã làm bẽ mặt hệ thống khoa cử Trung Quốc. Ba ngày sau khi bà Đồ nhận giải, tờ The Paper, một tờ báo được nhà nước hậu thuẫn, đã đăng một bài bình luận bảo vệ các viện sĩ, là danh hiệu cho những học giả của các viện nghiên cứu hàng đầu… - Thứ hai: Nguyên tắc “gia đình trị - nhóm lợi ích” luôn bao trùm trong giới khoa học Trung Quốc (và ở tất cả các lĩnh vực khác) các học viện vận hành dưới sự kiểm soát của Nhà nước không coi trọng kiến thức khi đề bạt nhân sự, mà quá trình này thường bị ảnh hưởng bởi tham nhũng và các “gia đình trị”. “Tham nhũng xâm nhập vào mọi ngõ ngách của xã hội, từ những học sinh gian lận trong thi cử, đến những viện sĩ ăn cắp ý tưởng và hối lộ để thăng tiến trong sự nghiệp. (Trần Phá Không, nhà văn và nhà bình luận chính trị Trung Quốc)”. Có một số nỗ lực để hạ thấp đóng góp của riêng bà Đồ, và vãn hồi thể diện của giới khoa học Trung Quốc, luận điệu liên quan đến những học viện nghiên cứu lớn, nơi mà các nhà khoa học liên kết chặt chẽ với các nhóm lợi ích của nhà nước. Trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông Trung Quốc, những nhà khoa học chính thống của Trung Quốc này cho rằng thành tựu của bà Đồ không phải của riêng bà, họ chỉ ra rằng 500 nhà khoa học khác cũng làm việc trong Dự án 523, là một chương trình quân sự bí mật thành lập theo lệnh của Mao Trạch Đông, chương trình này đã có những đóng góp quan trọng để chiết xuất ra phương thuốc này. Khi bà Đồ nhận giải thưởng danh giá Lasker cho Nghiên cứu Y học vào năm 2011 vì công trình khoa học trong lĩnh vực sốt rét, giới khoa học Trung Quốc cũng cố gắng nhấn mạnh nghiên cứu được nhận giải là công sức tập thể. … Bs Học tập hợp. Giáo sư Nguyễn Quốc Hùng, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, người biên soạn 106 cuốn sách phục vụ giảng dạy và học tập Tiếng Anh và xây dựng 656 bài phát sóng trên truyền hình, khẳng định những giáo viên Philipines được tuyển về dạy tiếng Anh ở Việt Nam đều đạt yêu cầu. Vị giáo sư danh tiếng này cũng chính là một trong những chuyên gia sang Philipines phỏng vấn trực tiếp các giáo viên. Ông nói: “Tiếng Anh ở Philipines là ngôn ngữ thứ 2. Nền tảng như thế nên giáo viên tiếng Anh của philipines nhìn chung là rất khá bởi vì họ phải dạy tất cả các môn bằng tiếng Anh, nhất là bậc tiểu học”. Xin giáo sư cho biết những đánh giá cụ thể về những giáo viên mà giáo sư đã phỏng vấn và tuyển về dạy tại Việt Nam trong thời gian tới? Để tuyển 29 giáo viên chúng tôi đã sang Philipines và phỏng vấn hơn 100 giáo viên. Cách phỏng vấn, kiểm tra trình độ kỹ lưỡng như vậy tốt hơn là chúng ta sẽ lấy ào ạt. Qua phỏng vấn những giáo viên này tôi thấy rằng trình độ diễn đạt, giao tiếp và dạy tiếng Anh của tương đối tốt, còn việc họ có thể bị ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ thì điều đó là điều tất nhiên. Tất cả những người không phải người Anh, Mỹ, Úc…nói tiếng bản ngữ thì họ sẽ bị ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ. Nhưng như tôi đã nói, chúng ta chọn lựa kỹ càng bởi vậy trong số cả trăm giáo viên chúng ta có thể chọn những người có sự di truyền tiếng mẹ đẻ ít hơn những người khác. Theo tôi nghĩ thì cách làm như vậy giúp chúng ta đảm bảo được những giáo viên có chất lượng sang giảng dạy. Như vậy phụ huynh học sinh cũng như các trường có thể hoàn toàn yên tâm với chất lượng giảng dạy tiếng Anh của những giáo viên này, phải vậy không thưa giáo sư? Tôi cho rằng tính thành công của đề án ngoài năng lực tiếng Anh của giáo viên Philipines còn một điều nữa ở phía chúng ta cần hỗ trợ họ đó là sự hiểu biết về người Việt Nam. Muốn dạy ngoại ngữ thành công phải đánh trúng điểm yếu của người học, để giúp người học vượt qua được những rào cản này.Ví dụ người Việt Nam phát âm yếu chỗ nào, lỗi ở đâu và phương pháp học của người Việt Nam hiện nay mạnh yếu chỗ nào… tất cả những điều đó khi họ sang đây chúng ta cần có khóa học ngắn để hướng dẫn họ chi tiết tất cả những điều đó. Việc phối hợp giữa năng lực của họ cùng sự hiểu biết và nhu cầu của người Việt Nam khi học tiếng Anh sẽ đem lại thành công cao hơn. Nhiều ý kiến vẫn băn khoăn cho rằng với mức lương 2000 USD chúng ta có thể thuê được người dạy tiếng Anh là người bản ngữ, giáo sư có đồng tình với quan điểm này? Thực ra nếu mình chọn được trình độ giáo viên của Anh – Mỹ thì đương nhiên sẽ hơn vì họ nói tiếng Anh bản ngữ nhưng với số tiền như thế nếu ta chọn người Anh – Mỹ không phải là giáo viên thì cái đó còn tai hại hơn là chọn người Philipines là giáo viên. Bởi vì không phải mỗi chốc anh có thể trở thành giáo viên được. Không phải cứ người Anh, người Úc sang đây làm nghề nào đó sau đó thảo luận với nhau độ 1 tuần về phương pháp giảng dạy là có thể thành giáo viên được. Mà nếu không phải giáo viên thì thực sự họ không thể dạy được, họ chỉ có thể giúp người học hiểu được, nói được tiếng của họ mà thôi. Chính vì điều đó mà hiện nay rất nhiều trung tâm ở Hà Nội toàn “Tây” dạy cả nhưng chất lượng lại rất kém bởi vì những người đó không phải là giáo viên. Vậy với mức lương đó ta có thể sử dụng chính giáo viên giỏi trong nước, giáo sư nghĩ sao? Tình hình giáo viên Việt Nam cũng rất rõ ràng, có người giỏi, có người trung bình và có người kém, Hiện nay qua khảo sát của dự án 2020 thì trình độ trung bình và kém rất nhiều. Phần giáo viên tương đối giỏi để đảm bảo chất lượng đào tạo tương đối ít. Cho nên nếu chỉ dùng riêng giáo viên người Việt Nam thì chúng ta rất khó huy động. Ví dụ nếu đào tạo ở một tỉnh chỉ có 5 – 10 người giỏi, số lượng ít ỏi này không đủ phải huy động các tỉnh khác, mà huy động các tỉnh khác sang thì rất là khó. Thực tế, tập hợp đội ngũ giáo viên Tiếng Anh toàn quốc để chọn ra giáo viên đạt chất lượng để huấn luyện cho giáo viên khác là rất khó. 29 giáo viên chưa về dạy nhưng nhiều địa phương đã đặt vấn đề “tận dụng” nguồn nhân lực này bằng cách mở các trung tâm để giáo viên Philipines đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên tiếng Anh của địa phương đó. Theo giáo sư, mô hình này có nên thực hiện không và có hiệu quả không? Về nguyên tắc tôi cho rằng điều đó rất tốt. Tuy nhiên, có rất nhiều điều kiện làm cho chúng ta không thành công từ trước đến nay trong việc làm này. - Thứ nhất chọn lựa người đó vào đào tạo có chính xác không, người đi đào tạo người khác thì phải là bậc thầy của những người khác. Anh có thể chọn được những bậc thầy của những người khác để giảng dạy không.. - Thứ hai, quy trình đào tạo của chúng ta có chính xác hay không, chúng ta phải xây dựng một chương trình đào tạo có khả năng nâng họ lên một trình độ cao hơn - Và thứ ba phương pháp đào tạo của họ. Nếu ta đảm bảo được ba điều đó thì việc đó nên làm. Theo tôi hiện nay ở các địa phương ngay như các thành phố lớn như Hà Nội, hay TP Hồ Chí Minh việc làm đó cũng không dễ và có thể khả thi, chưa nói tới các tỉnh khác, điều kiện để thành lập mô hình đó không thuận tiện bằng. Vâng, xin cảm ơn giáo sư về cuộc trò chuyện này! [Nguyễn Quốc Hùng M.A là một trong những chuyên gia về giảng dạy Tiếng Anh hàng đầu ở Việt Nam. Ông là giảng viên đầu tiên của Việt Nam (và cũng có thể là duy nhất) được nhà nước cử sang Anh để đào tạo bài bản về: Dạy tiếng Anh qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ông nói: học tiếng Anh cũng như học bơi, nếu không có phương pháp thì không thể bơi xa, bơi đúng được]. Anh Phương (Thực hiện) Trong “Hội nghị quốc tế thường niên về quản lý khoa lâm sàng”, giáo sư Viên Chung, Giám đốc nhà xuất bản đại học Y khoa Dung Hợp đã phát biểu chủ đề diễn thuyết mang tên “Bác sĩ làm việc thích ứng với văn hóa”. Ngữ điệu của ông bình thường nhưng lại chỉ ra những sai lầm khắp nơi, rất nhiều ví dụ làm cho người ta phải suy nghĩ sâu sắc; hội trường với hơn 300 người nghe đều lặng ngắt như tờ. Rốt cục, giáo sư Viên Chung đã nói đến những điều gì? Dưới đây là toàn bộ bài diễn thuyết của ông: Một người tìm anh xem bệnh, họ đem hết những việc riêng tư của mình nói cho anh biết, cởi hết quần áo cho anh kiểm tra, đem hết những thống khổ kể cho anh, đem cả sinh mệnh mà giao cho anh, những người này (bác sĩ) chỉ đứng thứ hai sau Thần, chứ không còn là một người bình thường. Bởi vì có thương yêu mới có việc chữa bệnh và bệnh viện, nếu như sự yêu thương này mất đi thì không thể gọi là chữa bệnh mà nó trở thành giao dịch, một giao dịch sẽ không có sự tôn nghiêm. Khi đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo”, “Cuộc sống số một”…, thì chúng ta có thể nói trắng ra rằng toàn bộ các nhánh sông đều đã bị ô nhiễm, không có con cá nào có thể thoát khỏi bị ô nhiễm, phương pháp xử lý ô nhiễm chỉ có thể là xử lý từ thượng du. Thường xuyên có nhiều sinh viên hỏi tôi tính nhân văn của y khoa có chỗ lợi ích nào? Tôi muốn từ hai mặt mà nói, mặt thứ nhất là giá trị quan, mặt thứ hai là giá trị nhân văn. Giá trị quan là đạo, giá trị nhân văn là thuật. Sự tôn nghiêm bên trong giá trị quan Đầu tiên, tôi muốn nói một chút về “đạo”. Hiện nay đã đến cuối năm rồi, rất nhiều bệnh viện đều sẽ mở đại hội tổng kết trong tháng này. Tôi có nghe qua một chút khi viện trưởng bệnh viện bắt đầu đại hội, ông nói: “Một năm đã qua, trải qua nỗ lực không ngừng của toàn thể công nhân viên chức bệnh viện, bệnh nhân nằm ở viện chúng ta tăng 20%, bệnh nhân ở phòng khám bệnh của chúng ta tăng 30%, thu nhập của chúng ta tăng thêm 10%”. Thế đấy, những lời này có phải là có vấn đề gì không? Có thể các vị chủ nhiệm và các bác sĩ ngồi đây đều sẽ cảm thấy đây là một việc rất tự nhiên. Kỳ thực, tôi nói cho mọi người biết, những lời này không nên được nói ra từ một viện trưởng, mà phải là lời của nhà kinh doanh, viện trưởng chúng ta nên nói những điều gì? Điều chúng ta nên nói là: “Chúng ta đã chữa khỏi cho bao nhiêu người, chúng ta đã giúp được cho bao nhiêu người”. Chúng ta đã quên mất cái gì gọi là bệnh viện, chẳng phải giá trị quan đã gặp bất trắc. Cũng có bác sĩ nói cho tôi biết, bản thân anh ta làm bác sĩ là để kiếm tiền. Điều này vốn không sai, nhưng tôi muốn nói cho các vị rằng, nếu chỉ muốn kiếm tiền thì đừng bao giờ làm bác sĩ. Có nhiều công việc trong xã hội này so với nghề bác sĩ vẫn kiếm được rất nhiều tiền, buôn bán bất động sản, khai thác mỏ, tài chính, IT… Thế nhưng, chỉ có hai nghề vừa kiếm ra tiền vừa được sự tôn nghiêm, một là bác sĩ, hai là giáo viên. Ở Nhật Bản, chỉ có hai nghề có thể được gọi là “tiên sinh”, đó chính là hai nghề này, bác sĩ và giáo viên. Tôi có một người bạn, là trưởng phòng nghiên cứu khoa học bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh, ông ta là người Tân Cương. Ông ấy từng kể cho tôi một chuyện, người Duy Ngô Nhĩ tin rằng con người khi chết đi có thể lên trời, nhưng không phải ai cũng có cơ hội lên trên đó mà phải trải qua thảo luận tập thể. Tham quan, công an xấu, trật tự đô thị xấu phải bị đọa xuống địa ngục; nhưng chỉ có hai nghề có thể lên trời mà chẳng cần bàn cãi nhiều, đó chính là nghề bác sĩ và giáo viên. Điều gì gọi là tôn nghiêm? Tôi cũng là một bác sĩ, tôi cũng có nhận thức về điều này. Một người tìm tôi xem bệnh, đem hết những tâm tư thầm kín kể cho tôi nghe, cởi hết quần áo cho tôi kiểm tra, đem hết những thống khổ nói cho tôi biết, giao cả sinh mệnh cho tôi, loại người này chỉ xếp sau Thần mà thôi, không phải người bình thường. Nếu như bác sĩ không xem thật kỹ bệnh mà chỉ xem túi tiền của người bệnh, người bệnh sẽ hận các vị đến chết. Cơ Đốc Giáo có hai điều rất quan trọng, một là quan niệm thần thánh, hai là tinh thần bác ái. Quan niệm thần thánh cho tôi biết bác sĩ là tập thể những người ưu tú. Hội trưởng Hiệp hội bác sĩ Trung Quốc là Trương Nhạn Linh từng nói với tôi, ông ấy đến Nhật Bản vào thập niên 90. Ở Nhật lúc đó có một người thường xuyên đến thăm hỏi các bác sĩ, điều này khiến tập thể bác sĩ Trung Quốc rất lấy làm lạ, “Chúng tôi không phải đoàn đại biểu chính trị, cũng không phải đoàn đại biểu kinh tế, cũng không phải đoàn đại biểu ngoại giao, chỉ là một nhóm bác sĩ”. Cuối cùng, người kia mới nói một câu “Tôi cả đời muốn làm bác sĩ, nhưng thi không đậu, thế nên tôi tôn kính bác sĩ”. Chủ tịch bệnh viện Hòa Mục Gia, Bắc Kinh, Lý Bích Tinh, là người Do Thái, bà từng nói với tôi vì sao người Do Thái nhiều người thành công, thông minh hơn những người khác. Kỳ thực là vì người Do Thái có quan niệm thần thánh. Người Do Thái tin rằng họ là con dân của Thượng Đế, cho nên họ so với người khác càng nỗ lực, càng chăm chỉ, cũng càng dễ thành công. Bác sĩ nếu có được quan niệm thần thánh, họ sẽ là những người ưu tú nhất, bất kể là ở phương diện nào, dù cho là thầy thuốc làng, họ cũng sẽ là những người ưu tú nhất nơi đó. Hai ngày trước, Đài Loan có một bác sĩ rất ưu tú là Kha Văn Triết, hiện đã thành thị trưởng thành phố Đài Bắc. Không chỉ là bác sĩ, ông còn là lãnh đạo, một bác sĩ giỏi không chỉ về kỹ thuật mà còn về nhân phẩm, nó giúp ông sự ủng hộ và tán thành của mọi người. Tuy nhiên, ai ai trong chúng ta cũng biết, mấy năm nay xã hội chúng ta phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Sinh viên y khoa Đại học Phục, Thượng Hải, đầu độc chết chính bạn học cùng ký túc xá, cậu ta đã nói một câu “Tôi là ‘cái xác người trống rỗng’, không có giá trị quan”. Tôi không biết mọi người có từng nghĩ tới chưa, tại sao cậu ta là “cái xác người trống rỗng”? Suy nghĩ một chút mấy năm nay vẫn có một số sinh viên đại học giết người, như Mã Gia Tước, Dược Gia Hâm. Những năm nay chúng ta đã sáng tạo ra tài phú vật chất cực lớn, thế nhưng chúng ta đã sáng tạo được tài phú tinh thần chưa? Mọi người có thể để tay lên ngực tự hỏi lòng mình. Quốc gia chúng ta có rất nhiều mỹ đức truyền thống, lòng yêu nước, yêu quê hương, giảng hiếu tận, giảng cần kiệm, giảng lấy đức phục người, giảng thiên hạ công bằng, giảng tiết kiệm phục lễ, khắc kỉ phục lễ (lời của Khổng Tử: ước chế tự thân khôi phục lễ nghĩa), giảng lễ nghĩa nhân trí tín, thế nhưng dường như hiện nay chẳng ai giảng về điều này nữa. Sự cứu rỗi của tinh thần nhân văn Thư cục Trung Hoa vừa xuất bản hai cuốn tài liệu giảng dạy cơ sở văn hóa truyền thống Trung Hoa của Đài Loan. Các bạn Đài Loan của tôi đều cho tôi biết, họ từ nhỏ đều đọc “Luận ngữ”, còn chúng ta thì làm gì? Bài học đạo đức phẩm cách tư tưởng của chúng ta ở tập thể là “bịt tai lại mà đi trộm chuông”. Có giáo sư Bắc Đại nói rằng chúng ta mấy năm nay đều bồi dưỡng rất nhiều “người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo”, cái gì gọi là người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo? “Tinh xảo” là thông minh, “tư lợi” là mọi thứ đều lấy tự ngã làm trung tâm. Chúng ta nên thật sự phản tỉnh lại, có một lần tôi và Sa Beining nói chuyện tại Vũ Hán, ông ta hỏi tôi “Ngành nghề chữa bệnh như thế nào?”. Tôi liền đáp lại: “Trước hết đừng nói ngành nghề chữa bệnh như thế nào, khi Đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối như “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo” “Life No.1”…, đã nói rõ toàn thể dòng sông đã bị ô nhiễm, không có con cá nào thoát khỏi ô nhiễm, cách xử lý ô nhiễm là xử lý từ thượng du. Tổng bí thư trung ương Đảng là ông Tập, hiện đang xử lý thượng du, dòng sông có lẽ rất nhanh sạch sẽ”. Điều này kỳ thực là giá trị quan. Các vị đều là những chuyên gia lớn nắm giữ kỹ thuật tiên tiến các loại, có đầy người bản lĩnh có thể làm hai chuyện. Một là thấy việc nghĩa hăng hái làm, thấy việc bất bình ra tay tương trợ; hai là chặn đường cướp bóc. Làm tốt làm xấu, bản chất văn hóa trong nội tâm người ấy sẽ quyết định lựa chọn cuối cùng của mình. Có vị bác sĩ cho tôi biết, ông ta trong ngày đầu tiên đi làm ở khoa tiêu hóa, mỗi ngày ít nhất phải hoàn thành chỉ tiêu là chữa bệnh được cho 1 người. Thế nhưng hôm đó ông ta cả ngày 1 bệnh nhân cũng không có, mà giờ tan ca sắp đến. Khi ấy, một nông dân bị bệnh tim mạch vì bị đeo sai số nhầm khoa và tìm đến. Do đó, ông đã làm trái lương tâm mà xem bệnh và kê thuốc cho người nông dân này. Khi bệnh nhân lấy thuốc rồi quay lại hỏi, ông ta cảm thấy nội tâm thật sự áy náy. Ông ta bèn bảo người nông dân này hãy tới lấy số lần nữa để đi khám tim mạch, người nông dân đó đột nhiên khóc ròng nói: “Tôi đã dùng hết tiền rồi”. Vị bác sĩ này sau khi đã bộc bạch chuyện của mình với đồng nghiệp, thì cảm giác xấu hổ cứ vây lấy tâm can, từ đó rời bỏ bệnh viện, không làm bác sĩ nữa. Khi các viện trưởng, cán bộ cấp trên chế định chính sách, đừng bao giờ để bác sĩ chúng ta phải phải hi sinh sự lương thiện để đổi lấy quyền lợi chính đáng lúc đó. Vốn dĩ anh ta nên có tiền lương 1 vạn đồng nhưng chỉ phát cho anh ta 2.000, còn 8.000 đồng để anh ta tự mình kiếm lời; đây là hành vi gian ác. Cái gì là chữa bệnh? Chữa bệnh khởi nguyên là một tấm lòng đồng cảm, con người quý ở chỗ có tâm đồng cảm, lòng thương xót. Vì chứng kiến thấy người khác bị đau khổ, chịu khổ chịu nạn mà mình cũng cảm thấy thương xót mà giúp đỡ người ta, đây mới gọi là chữa bệnh. Cái gì là bệnh viện? Trong thời trung cổ, xã hội của Cơ Đốc giáo có rất nhiều người nghèo là ăn mày lang thang khắp nơi, không ai quản đến. Vì thế, họ đã bố trí một nơi để họ giảm bớt khổ cực, cuối cùng từ từ tạo thành bệnh viện. Bởi vì yêu thương mới có chữa bệnh và bệnh viện, nếu mất đi tinh thần này thì không thể gọi là bệnh viện, mà gọi là giao dịch, nó không có tôn nghiêm. Chúng ta cơ hồ đem bệnh viện trở thành một cái xí nghiệp, nhóm lãnh đạo của chúng ta cả đám mở hội họp, điều thích nhất nói đến là “Bệnh viện chúng ta 500 triệu, bệnh viện chúng ta 800 triệu, bệnh viện chúng ta 900 triệu, bệnh viện chúng ta 1,2 tỷ, bệnh viện chúng ta 2 tỷ”. Tại sao chủ nhiệm khoa phụ sản bệnh viện Hiệp Hòa, Lang Cảnh, và viện sĩ nói rằng nhân viên phòng y tế mỗi tuần phải đọc một cuốn sách ngoài chuyên môn, chính là vì để mở rộng mặt tri thức. Bác sĩ chúng ta nên học được cách giao tiếp với người, chúng ta không thể chỉ học mỗi cách giao tiếp với bệnh tật. “Có khi đi trị liệu, thường xuyên giúp đỡ, lại luôn là an ủi”, luôn là an ủi, thế nhưng chúng ta có năng lực an ủi không? Cái này hoàn toàn là nhân văn y học phải được bồi đắp. Chỗ khác biệt giữa bác sĩ Trung Quốc và bác sĩ Mỹ Quốc là ở chỗ nào? Bác sĩ Trung Quốc hiện nay kinh nghiệm lâm sàng vô cùng phong phú, chúng ta đã làm nhiều giải phẫu như thế. Thế nhưng so sánh bác sĩ Trung Quốc và Mỹ Quốc một chút, điều khác biệt ở chỗ “thương yêu”. Bác sĩ Mỹ Quốc làm bệnh nhân cảm nhận được tình yêu, bác sĩ Trung Quốc không làm được. Không đủ tin tưởng khoa học kỹ thuật, đây là một bộ phận rất quan trọng của văn hóa truyền thống dân tộc chúng ta. Toàn thế giới đại đa số dân tộc đều tin rằng con người chết rồi có thể luân hồi, có cuộc đời sau này. Thế nhưng dân tộc chúng ta muốn truy cầu trường sinh bất tử, thế nên chúng ta phát minh ra rất nhiều phương pháp trường sinh bất tử. Chúng ta tuyệt đối là một dân tộc không có sự chuẩn bị cho cái chết. Người Trung Quốc nào cũng có thể nhẫn chịu, mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn công việc, mâu thuẫn xã hội đều có thể nhẫn, thế nhưng khi đối mặt với cái chết thì không nhẫn chịu được. Chúng ta không có chuẩn bị, đối mặt với cái chết, phản ánh tâm lý đầu tiên là phẫn nộ và khiếp sợ. Do đó, văn hóa truyền thống của chúng ta quá cần tinh thần nhân văn y học. Tôi nói một vấn đề cuối cùng, cũng là vấn đề làm thế nào để trở thành một người bác sĩ tốt. Thứ nhất, tôi không muốn nói mọi người ai cũng phải đi học Lôi Phong, học Bạch Cầu Ân, tôi chỉ cần nói cho các vị chuyên gia và lão sư, các vị nhất định phải nghĩ đến khi mình già rồi thì cũng sẽ rơi vào trong tay một bác sĩ nào đó. Các vị trước hết làm một bác sĩ tốt, học trò của các vị mới có thể là bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, vị bác sĩ này sẽ chăm sóc các vị. Hiện nay các vị không làm được một bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, học trò của các vị sẽ chiếu theo phương pháp của các vị mà trừng phạt các vị. Chúng ta không thể khiến học trò học Lôi Phong khi chính mình đang học theo Hòa Thân. Thứ hai, vì con cái mà làm một người tốt. Rất nhiều việc, người Trung Quốc chỉ có vì con mới làm, vì con mới cải biến. Tôi từng giảng về vấn đề cai thuốc, tuy chúng ta học người nước ngoài trên hộp thuốc lá in hình đầu lâu và phổi đen, nhưng rất nhiều người căn bản sẽ không cai thuốc. Chúng ta dưới tình huống nào mới cai được? Chỉ có khi trên bao thuốc có viết “Hút thuốc sẽ khiến cho con của các bạn biến thành dị dạng”, tôi nghĩ người đọc câu đó nhất định sẽ cai. Thứ ba, con người cả đời này vì cái gì mà đến đây? Nếu như có cơ hội đi trong sa mạc Tân Cương để quan sát 1 lần, nếu như có một vũng nước, thì nhất định phải trồng cỏ, có cỏ mới có dê bò, có dê bò mới có người. Giá trị của cỏ là vì để cho dê bò sống tốt, giá trị của dê bò là để cho con người sống tốt, giá trị của con người là khiến cho những sinh vật khác sống tốt. Xã hội này vì có bạn mới có thêm 1 phần tốt đẹp, đừng vì có bạn mà lại thêm lại một phần thống khổ hoặc bất hảo. (Theo sina.cn) Y khoa trong Chiết tự chữ Hán (Lê Quang Thông - BV Đà Nẵng) Chữ Hán là một linh tự ai cũng đã biết.Trong những lúc trà dư tửu hậu chiết tự cũng là một cách học hỏi triết lý người xưa gởi gắm trong từng chữ… Tác giả thực sự chỉ biết dăm chữ, mục đích phiếm luận vui về các Hán tự có liên quan đến ngành Y và các đức tính cần thiết của người thầy thuốc với quan điểm của cụ Nguyễn Du “mua vui cũng được một vài trống canh”… Chữ Y theo BS Nguyễn Văn Kha có ý nghĩa qua ba thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất: thế kỷ 50-28 trước Công nguyên: chữ y 醫 gồm chữ khuông có nghĩa là túi, bên trong có chữ thỉ 矢nghĩa là cung tên, bên phải là chữ thù 殳nghĩa giáo mác, phía dưới hình mặt nạ 酉. Có nghĩa là thời xa xưa thầy phù thủy đeo mặt nạ cầm khí giới (tên và kích) để xua đuổi ma quỷ. Thời kỳ này người ta còn miệt thị ngành Y, nghề này chỉ dành cho phù thủy, thày pháp, thi rớt và còn tin nghề này bịp bợm thất đức nên có câu Nhất thế y tam thế suy (một đời làm thuốc ba đời suy). Ngày nay ý nghĩa này vẫn còn áp dụng cho các ông Đạo rờ, Đạo vuốt… nhập đồng kiểu cô Ba, ông Hoàng Bảy cho tàn nhang nuớc lã vẫn có người tin… và chúng ta để ý con cháu của các thầy pháp, thầy cúng, lang băm… thất đức… đều suy vi cả… Thời kỳ thứ hai: từ thế kỷ 28 trước Công nguyên đến 1949: Bắt đầu từ khi có các tác phẩm Hoàng đế Nội kinh, Châm cứu và hệ thống lý luận âm dương ngũ hành hòan chỉnh, ngành Y được trọng vọng cho nên đây là nghề chuyên nghiệp, chữ Y được hiểu là chữ khuông cái túi chứa chữ Thỉ là kim châm cứu, chữ Thù hiểu là dao giải phẩu (như Hoa Đà mổ cho Quan Vân Trường), mặt nạ hiểu là chữ Dậu 酉 là lọ thuốc có nghĩa thầy thuốc đa khoa (châm cứu - phẩu thuật) kiêm dược sư cho thuốc luôn - (ngày nay tại Việt nam nhiều BS còn bán thuốc trong phòng mạch tức thực hành y dược song hành như người xưa?) - thời này nghề Y được đề cao và nhiều nhân vật nổi tiếng như Hoa Đà, Biển Thước, Trương Trọng Cảnh… và đây là nghề cứu nhân độ thế nên có câu Nhất thế y tam đại công khanh (một đời làm nghề y ba đời làm khanh tướng) cho nên ta không lấy gì làm lạ có dòng họ ba bốn đời là bác sĩ quan lại tiếng thơm muôn thưở như các dòng họ Tôn Thất, Hồ Đắc, Lê Khắc… tam đại đều phú qúy vinh hiển… Thời kỳ từ 1949 đến nay: chữ Y giản luợc còn chữ khuông và chữ thỉ,ta thấy chữ thỉ không còn nghĩa trong túi chứa cung tên hay kim châm cứu mà còn ý nghĩa như “tang bồng hồ thỉ”, theo nghĩa bóng người thầy thuốc chứa trong mình những khát vọng cao hơn nữa, bay cao bay xa trong biển y học mênh mông… nghĩa đen là người thầy thuốc đi đây đi đó… đi du lịch, dự nhiều Hội nghị khắp năm châu… cho thỏa mộng hải hồ… tung hoành ngang dọc (xem giải thích chữ Sĩ dưới đây). Trong các ngành nghề BS có nhiều cơ hội dự nhiều hội nghị khắp nơi hơn các ngành khác, nếu có nhiều tài năng và tài… lộc. Chữ Sĩ 士 gồm chữ nhất phía dưới chỉ người đứng đầu trong sĩ nông công thương và chữ Thập gồm nét sổ ngang tuợng trưng trục hòanh (tứ phương tám hướng), sổ dọc là trục tung, ý nói sĩ là người học rộng hiểu nhiều mọi chuyện trong trời đất (trên thông thiên văn, dưới thạo địa lý), hiểu biết sự vận hành trong vũ trụ … Thiên Địa Nhân (người nối trời và đất – sổ dọc nối hai gạch ngang). Học giả Vương Sung đời Hán đã từng nói: “Cố trí năng chi Sĩ, bất học bất thành, bất vấn bất tri” (Cho nên kẻ Sĩ có trí tuệ, có năng lực, không học không thành, không hỏi không biết). Ngày nay chữ Thập còn tượng trưng 10 ngón tay khéo léo của sĩ (kinh tế tri thức) trong mọi ngành nghề nhất là 10 ngón tay gõ vi tính lướt internet thông hiểu mọi tri thức của nhân loại. Cho nên có chữ Cát 吉 là điều tốt lành gồm chữ khẩu 口 và chữ Sĩ 士 có nghĩa miệng kẻ sĩ luôn nói chuyện tốt lành, lời hay ý đẹp, tri thức sâu sắc đáng tin cậy. Bác là người học rộng, hiểu nhiều, uyên bác 博 Bác sĩ phải có lòng nhân ái, thương người, chữ nhân ái 仁 gồm chữ nhị 二 và nhân人 (người) có ý nghĩa hai người mới có lòng nhân ái, người thầy thuốc có bệnh nhân mới có lòng nhân, và người bệnh nhân quý mến người thầy thuốc cũng là nhân, thương yêu nhau. Nếu chỉ có một vế thì sẽ là “tình đơn phương” hay “lương y như dì ghẻ”?. Chữ Ái 愛 gồm chữ Trảo 爪 phía trên tiếp đến là chữ Mịch 冖 là che đậy che chở, phía dưới là chữ tâm 心 và dưới nữa là biến thể của chữ Tòng 從 tượng hình hai nguời đi với nhau (hai chữ nhân) nghĩa là móng vuốt (trảo) hay các điều xấu phủ xuống, hay là những gian khó trong cuộc đời (vợ chồng) thì ta lấy cái lòng che chở cho người theo ta đó là yêu thương, bác ái, ái tình… “ngộ ái nị”… Người thầy thuốc lấy tấm lòng che chở người theo ta để chữa bệnh, bệnh tật là tai ương như móng vuốt (trảo) của thú trùng (vi trùng), của nội thương ngọai cảm… Ái đây là ái nhân… tấm lòng cao quý như soeur Theresa hay BS Albert Sweitzer từ bỏ tiện nghi văn minh vào Châu Phi đem tấm lòng bác ái cho những bệnh nhân xa xôi hẻo lánh… Ngành y khoa còn có một chữ Huệ 惠 , có nghĩa là lòng nhân ái tấm lòng bao la không biên giới gồm chữ Xa 車 và chữ Tâm 心 người xưa ám chỉ đem tấm lòng chuyên chở rộng khắp bao la đó là Huệ, ân huệ như những Thầy thuốc không biên giới (Medecins sans Frontières) đem tấm lòng trải khắp cõi nhân gian, nguời thấy thuốc đem tấm lòng đi về những nơi xa cứu người giúp người trong các công việc từ thiện dù có thể chết vì dịch tả Ebola, hay Cúm gà… Người thầy thuốc ban ân huệ nhưng… bất cầu báo mà vẫn có lộc, vì Khổng Tử đã nói: “Học giả lộc kỳ trung”, trong sự học của kẻ Sĩ đã mầm mống cái lộc rồi… Chữ Lộc 鹿 trong Hán tự là chữ tượng hình vẽ hình con Hươu, lộc có nghĩa là lợi lộc do trong cổ xưa người ta hay ‘trục lộc”(đuổi hươu), “hoạch lộc” (săn bắt hươu) nhất là thời kỳ Ân Thương hay đến thời Đường Tống. Hươu là động vật hoang dã thường gặp nên có nghĩa là lợi lộc, bỗng lộc hay Lộc Đỉnh ký của Kim Dung là truyện miếng mồi của đỉnh chung… Thầy thuốc ngày nay có lộc cũng từ bệnh nhân, lộc hươu đó chẳng phải là bệnh nhân đấy sao? Những bệnh nhân ngoan ngõan như hươu nai (lộc), nguời thầy thuốc bảo gì nghe nấy chỉ một xét nghiệm máu bất thường chẳng hiểu mô tê gì hết đã gây biết bao sợ hãi, huống chi những bệnh hiểm nghèo mổ xẻ… khác chi “con nai vàng ngơ ngác”? Người thầy thuốc có nhiều bệnh nhân tín nhiệm ắt có nhiều lộc, nhiều lộc chứ không phải là giàu (phú). Vì nhiều thầy thuốc danh tiếng nhưng không giàu tiền, nhưng giàu (lộc) về đức độ và tài năng. Chữ Phú 富 gồm chữ Miên (nóc nhà) và dưới là chữ Nhất, chữ khẩu, chữ điền 田 tượng hình 4 lô đất ruộng (tuyệt nhất là 4 lô Phú Mỹ Hưng hay khu biệt thự nào đấy?) tức là trong nhà: một (nhất) (hộ) khẩu sở hữu nhiều đất ruộng (điền-bất động sản) là giàu. Chữ Điền ngày nay ta thấy không còn 4 lô đất mà tuợng hình là stock (kho hàng gồm 4 container-cổ phiếu), ai sở hữu nhiều cổ phiếu là giàu như Bill Gate chẳng hạn. Người thầy thuốc phải nhẫn nại nhẫn nhịn chịu khó lắng nghe bệnh nhân trình bày nỗi khổ đau của bệnh tật. Chữ Nhẫn 忍 gồm chữ Tâm 心 và chữ Đao 刀, ta có dao mổ, hay kim châm cứu… (vũ khí quyền lực) nhưng không áp đảo nguời khác mà phải lắng nghe, ta có uy quyền người thầy thuốc, nhưng không la mắng nộ nạt bệnh nhân mà phải dịu dàng mềm mỏng yêu thương nỗi khổ đau của họ, giải thích bệnh tật, tâm lý tiếp xúc tốt, người thầy thuốc như mẹ hiền đó là Nhẫn. Khó thay chữ Nhẫn của các bậc hiền triết phương Đông gởi gắm biết bao điều khi chế tác một linh tự như chữ Hán… Người thầy thuốc cần biết một chữ nữa là Hòa 和. Chữ Hòa gồm chữ Khẩu 口là miệng ăn và biến thể chữ Mễ 禾 là lúa gạo theo xã hội nông nghịêp Trung Hoa ngày xưa. Nhân loại có đầy đủ lúa gạo, không tranh dành miếng ăn là có hòa bình, nhà văn Lâm Ngữ Đường Trung Hoa cho rằng nguồn gốc mọi cuộc Chiến tranh là do cái dạ dày, con người tranh quyền đoạt lợi cũng vì Dạ dày, hay miếng ăn, miếng đỉnh chung, “lộc đỉnh ký”. Nguời thầy thuốc phải “hòa” với các đồng nghiệp, không tranh dành đoạt bệnh, hạ bệ lẫn nhau để “trục lộc” về mình. Biết san sẻ và bớt lộc cho các đồng nghiệp khác bằng cách nâng đỡ tạo mọi điều kiện cho đàn em kế thừa vươn lên không sợ hơn mình mà nên nghĩ “con hơn cha là nhà có phúc”, thế hệ đàn em giỏi hơn ta thì mừng. Lê Quang Thông (Bệnh viện Đà nẵng) Đăng 12th November 2013 bởi nguyen phuc Hoc
Học kỳ I lớp BACSI K21 có học các môn Tin học căn bản & Vật lý đại cương...
Tài liệu của môn Tin học CB: + Tài liệu học tập: Giáo trình do Bộ môn biên soạn + Tài liệu tham khảo: 1. Nguyễn Hạnh (2004), Bí quyết và thủ thuật trong Window, NXB Thống kê 2. Ông Văn Thông (2006), Microsoft Word, NXB Thống kê 3. Ông Văn Thông (2006), Microsoft Excel, NXB Thống kê 4. Nguyễn Đức Minh (2008), Tự học thực hành từng bước PowerPoint, NXB Thanh Niên 5. Nguyễn Thiên Bằng (2008), Internet cho mọi nhà, NXB Lao động xã hội Tài liệu tham khảo của môn Vật ly đại cương: + Tài liệu học tập: Giáo trình do Bộ môn biên soạn + Tài liệu tham khảo: 1. Phan Sỹ An và cộng sự (2006), Vật lý-Lý sinh học, NXB Y học 2. Vũ Công Lập và cộng sự (1986), NXB HVQY 3. Carl R Nave, Brenda C Nave (1980) Phisics for the Health Sciences, W.B Sauders Company Các tài liệu tham khảo có thể tìm thấy ở Thư viện trường (Tầng 6 K7/25 Quang Trung - Hoặc sang mượn bên Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng (hai mặt tiền - 46 đường Bạch Đằng và số 33 đường Trần Phú).
Giai thich ky hieu:
(10--16)*2=14 : (tuan 10 -den- tuan 16) * 2 Tin chi = 14 buoi 501-K7/25QT = phong 501 dia diem K7/25 Quang Trung ... Huy 11,13,15,17 = huy cac tuan 11,13,15,17 Bác sĩ đa khoa - General Practitioner
From Wikipedia, the free encyclopedia Định nghĩa Bác sĩ đa khoa là một bác sĩ điều trị các bệnh mãn và cấp tính, đưa ra các biện pháp phòng bệnh, hướng dẫn phục hồi sức khỏe và kê thuốc cho bệnh nhân. "Một bác sĩ đa khoa giỏi sẽ điều trị bệnh nhân không những trên phương diện nghề nghiệp mà còn coi họ như người thân" (Trích: "The good GP will treat patients both as people and as a population"). Sự khác nhau giữa bác sĩ đa khoa và bác sĩ chuyên khoa hay bác sĩ giải phẫu đó là họ khám bệnh theo phương pháp tiếp cận toàn diện về thể trạng bệnh nhân cũng như môi trường sinh học, tâm lý và xã hội nơi bệnh nhân ở. Nhiệm vụ chẩn đoán của họ không hạn chế vào một cơ quan nội tạng cụ thể của người được khám, và bác sĩ đa khoa được đào tạo nhằm điều trị bệnh nhân với nhiều vấn đề sức khỏe mắc phải. Họ không giới hạn chữa trị theo giới tính, tuổi tác và mức độ phức tạp của căn bệnh mà họ sẽ điều trị phụ thuộc vào quy định ở từng quốc gia. Vai trò - vị trí Ở hệ thống y tế của một số nước, bác sĩ đa khoa làm việc tại những trung tâm chăm sóc sức khỏe và đóng một vai trò quan trọng ở đó. Ở một số nước đang phát triển, bác sĩ đa khoa có thể hoạt động riêng độc lập tại những phòng khám tư nhân hay tại gia. Vai trò của bác sĩ đa khoa thay đổi rất lớn giữa các quốc gia hay thậm chí trong mỗi quốc gia. Ở vùng đô thị của các nước phát triển vai trò của họ hẹp hơn và tập trung vào chữa trị các bệnh mãn tính, điều trị bệnh cấp tính nhưng không ảnh hưởng nguy hiểm tới sức khỏe; hoặc bác sĩ đa khoa có vai trò chẩn đoán sơ bộ, phát hiện sớm và giới thiệu cho bệnh nhân đến một bệnh viện chuyên khoa, hoặc hướng dẫn chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh hoặc thực hiện tiêm chủng. Trong khi đó, ở những vùng nông thôn của các nước đang phát triển hoặc phát triển, bác sĩ đa khoa có thể tham gia vào những ca sơ cứu khẩn cấp, hộ sinh; hoặc tại một số bệnh viện cấp huyện hoặc tỉnh họ tiến hành các ca phẫu thuật không phức tạp. Thuật ngữ - bằng cấp Ở một số nước phát triển thuật ngữ "bác sĩ đa khoa" (GP) đôi khi cũng đồng nghĩa với "bác sĩ gia đình". Thuật ngữ GP là phổ biến ở Cộng hòa Ireland, các Vương quốc Anh và một số nước. Ở những nước này, từ bác sĩ đa khoa phần lớn là dành riêng cho một số loại chuyên gia y tế, đặc biệt là nội khoa, và thuật ngữ GP có ý nghĩa xác định rõ ràng, ở Bắc Mỹ thuật ngữ này đã trở nên hơi mơ hồ, và không nhất thiết đồng nghĩa với thuật ngữ "bác sĩ gia đình". Về mặt lịch sử, vai trò của bác sĩ đa khoa thường đồng nhất với bằng cấp bác sĩ tại các trường y khoa. Từ những năm 1950, ở nhiều nước, ngành đào tạo bác sĩ đa khoa trở thành một ngành riêng, sinh viên y học ngành này với chương trình đào tạo riêng và tốt nghiệp ngành bác sĩ đa khoa. Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 đặt ra nền tảng tri thức về bác sĩ đa khoa và vấn đề chăm sóc sức khỏe ngày nay. Hội nghị Alma-Ata về Chăm sóc sức khỏe ban đầu, 1978: Hội nghị quốc tế về Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu được tổ chức từ ngày 6-12 tháng 9-1978 tại Alma-Ata, Kazakhstan, do WHO và UNICEF bảo trợ, với 134 nước- trong đó có Việt Nam- và 67 tổ chức quốc tế tham dự. Hội nghị đưa ra Bản Tuyên ngôn nổi tiếng về CSSKBĐ là Tuyên ngôn Alma-Ata, gồm 10 điểm, là chiến lược y tế toàn cầu nhằm đạt mục tiêu “Sức khỏe cho mọi người”. Tình hình sức khỏe của mọi người trước Hội nghị Alma-Ata được Tổ chức Sức khoẻ Thế giới (WHO) nhận định như sau: - 80% dân chúng không được chăm sóc sức khỏe một cách thỏa đáng và tình trạng sức khỏe nói chung là không thể chấp nhận được; - Nhân sự, kinh phí và trang thiết bị phân phối không công bằng – tập trung chủ yếu ở đô thị trong khi đa số dân chúng sống ở vùng nông thôn; - Hệ thống y tế rập khuôn theo Tây phương, là một hệ thống chủ yếu dựa vào điều trị, vào bệnh viện với kỹ thuật học cầu kỳ, tốn kém, không quan tâm đến bối cảnh kinh tế văn hóa và nếp sống của người dân địa phương; - Đào tạo theo kiểu cũ, không phù hợp; - Môi trường xã hội và thiên nhiên thay đổi. Nhiều bệnh tật mới xuất hiện, phức tạp, phản ánh tình trạng kinh tế – xã hội – chính trị, nên không thể giải quyết vấn đề đơn thuần bằng cách tiếp cận lâm sàng, cá thể như trước mà đòi hỏi phải có một phương pháp tiếp cận mới. Từ Hội nghị Alma-Ata 1978 đến nay, đã có 4 hội nghị quốc tế khác xem xét lại toàn bộ chiến lược CSSKBĐ để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. - Tại Madrid, 2003, Hội nghị đã đưa ra những định hướng chiến lược cho SSSKBĐ nhằm đạt Mục tiêu Sức khỏe cho mọi người (Health for All) ở thế kỷ 21 và Mục đích Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals) do Liên Hợp Quốc đề ra. - Tại Argentina, 8/2007, Hội nghị quốc tế về Sức khỏe cho Phát triển của WHO khẳng định lại, SSSKBĐ vẫn là chìa khóa để đạt mục đích Phát triển thiên niên kỷ với nhiều cơ hội và thách thức mới. Phúc trình của Tổ chức sức khỏe thế giới 2008 (WHO The World Health Report 2008 – khẳng định lần nữa: Chăm sóc sức khỏe ban đầu: “ Bây giờ hơn bao giờ hết!” (Primary Health Care “Now More Than Ever”) Bởi vì vẫn còn đó trong Y tế: Bất công, bất bình đẳng. Quá tốn kém, nghèo nghèo thêm. Ngày càng chuyên sâu, manh mún, không toàn diện. Không an toàn. Nhiều tai biến. Định hướng sai. Nặng điều trị, kỹ thuật cao, tốn kém. Thương mại hoá, tập đoàn hoá. Y tế cơ sở bị xói mòn, sụp đổ, nhẹ phòng bệnh. Có 8 yếu tố nội dung tối thiểu của CSKBĐ do Alma-Ata đề ra: 1) Giáo dục sức khỏe 2) Dinh dưỡng 3) Môi trường – Nước sạch 4) Sức khỏe bà mẹ trẻ em – Kế hoạch hóa gia đình 5) Tiêm chủng mở rộng 6) Phòng chống bệnh dịch địa phương 7) Chữa bệnh và chấn thương thông thường. 8) Thuốc thiết yếu. Ngoài 8 yếu tố tối thiểu trên, mỗi quốc gia đề thêm các yếu tố cần thiết khác, như Việt Nam đề thêm 2 yếu tố sau đây (trở thành 10 yếu tố): 9) Quản lý sức khỏe 10) Xây dựng và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. |
|