1 Comment
1. Trường Y Đông Dương
Năm 1902 người Pháp mở trường Y cho cả xứ Đông Dương, nhưng đặt ở Hà Nội, mà không phải Sài Gòn như dự kiến, vì một mục đích là dùng văn hoá khoa học Âu Tây xoá dần ảnh hưởng của Nho Học đã bén rễ sâu nhất trong xã hội Bắc Kỳ (đề xuất của Tiểu ban tư vấn do tiến sĩ Henaff đứng đầu) Tại sao mở trường Y mà không phải trường khác? Vì học xong, sẽ có việc ngay và sẽ gần dân – liên quan tới mục đích nói trên. Xưa nay, dù nghề gì thì mục đích số 1 vẫn là kiếm sống, qua đó mà phục vụ xã hội. Nhưng người Pháp nhận ra, nghề y ở xứ nông nghiệp dễ được người dân tìm đến nhất. Vẫn biết, người bệnh phải trả công, nhưng trong lời thề khi ra trường, có hai nội dung đáng chú ý: 1) Ưu tiên bệnh nặng mà không ưu tiên địa vị xã hội… và: 2) Chữa miễn phí cho người nghèo. Do vậy, thầy thuốc khó mà xa dân. Đã vậy, Quy Chế còn nhắc: khi ra trường “phải làm việc ba năm ở miền núi”. 2. Vì sao nghề y (và một số nghề khác) phải có lời thề nghề nghiệp? – Một số nghề dễ chiếm được lòng tin mà người hành nghề có thể lợi dụng để mưu lợi bất chính. Người bệnh tin thầy thuốc tới mức phó thác cả sức khoẻ, sinh mệnh và sẵn sàng phô bày cả thân thể, tâm trạng. Khốn nỗi, pháp luật cho tới nay vẫn chưa đủ trình độ phát hiện những sai phạm do lợi dụng lòng tin của một số nghề. Sự thiếu sót này được khắc phục – nhiều hay ít – bằng lời thề nghề nghiệp. Trong khi đó, nghề kinh doanh không cần thề “không cân điêu”.. vì pháp luật và người tiêu dùng có cách phát hiện sự gian trá đó. – Do vậy, lời thề sẽ giảm hoặc mất tác dụng nếu niềm tin trong xã hội suy giảm. – Vài nghề khác cũng có lời thề: Nghề xử án, nghề quân nhân. 3. Thực tế dạy ứng xử nghề nghiệp trước 1945 Đó là thứ đạo đức phi giai cấp, phi ý thức hệ, với tính nhân đạo chung chung, sau này rất bị phê phán khi chỉnh huấn. Trường Y xưa có nhiều cách dạy theo quan điểm này. a, Lời thề Tốt nghiêp & Việc Đọc Lời Thề Quan trọng, nhưng chỉ là một tiết mục trong buổi lễ phát bằng ngắn ngủi. Lời thề đã khác xa nguyên bản thời Hippocrate vì đã cách nhau gần 2500 năm. Sau 1945, trường Y Hà Nội bỏ thủ tục “thề bồi”. Do vậy, đến nay những người vừa rưng rưng lệ, vừa bàn tay trái đặt lên ngực, còn cánh tay phải giơ lên tuyên thệ… không ai còn sống nữa, nhưng một số điều trong lời thề có lẽ vẫn được dân Việt hôm nay tha thiết mong thành hiện thực. Ví dụ: Tôi xin thề chỉ lấy thù lao bằng đúng công sức mà tôi đã bỏ ra. Nó giúp duy trì lương tâm nghề nghiệp. Nội dung khác: Tôi chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Nó hạn chế cái quan hệ lạnh lùng “tiền trao, cháo múc. Và nữa: Tôi nguyện đem mọi năng lực và phương tiện trong tay làm những đều có ích nhất cho bệnh nhân. Nó thể hiện trách nhiệm đặc trưng của nghề… Không phải vị thầy thuốc tân khoa nào cũng nhớ suốt đời những nội dung quan trọng nhất của lời thề. Cụ Vũ Công Hoè ra trường 1936 nhưng gần nửa thế kỷ sau được hỏi lại, thì… “chỉ còn nhớ láng máng”. Có thể do cụ Hoè cả đời không trực tiếp chữa bệnh, mà chỉ cặm cụi nghiên cứu trên các tử thi. Tuy nhiên, cụ lại rất nhớ thầy Lucas Championnière đã giảng rất hay về cách ứng xử hợp đạo đức. Vị thầy này cứ đặt ra những tình huống éo le và hỏi học trò: Nếu gặp trường hợp như vậy, các anh sẽ ứng xử thế nào… Sinh viên phải vận dụng lý thuyết đã học (môn Quy Chế Hành Nghề) để trả lời. Hoá ra, cách dạy case study hiện nay chưa phải sáng tạo gì ghê gớm. Như vậy, ngoài đọc lời thề (tới tận cuối khoá học mới có dịp thực hiện) thì vấn đề là hàng ngày sinh viên đã học gì và các thầy đã nêu gương thường nhật ra sao… b, Dạy Y đức - Điều nay dễ hiểu lầm làm sai Trường không có môn lý thuyết “Đạo Đức”, kể cả “Đạo Đức Y Học”. Đạo đức nghề nghiệp chỉ thể hiện ở cách ứng xử, mà không ở chỗ thuộc làu làu lý thuyết. Không có vị đạo cao đức trọng nào dùng cách nói thao thao: “anh phải thế này”, “anh nên thế khác”… mà sinh viên trở thành nhà đạo đức. Tuy nhiên, có một môn được dạy: môn Quy Chế Hành Nghề (Deontology), vừa lý thuyết, vừa thực hành. Các cựu sinh viên cho biết: Chỉ các GS kỳ cựu nhất mới được cử ra “kiêm” dạy môn này, ví dụ GS Sollier (chuyên khoa Tai-Mũi-Họng); nhưng GS Vũ Công Hoè lại nói, từng học môn này từ vị thầy khá trẻ: Lucas Championnière. Đó là môn dạy hành xử sao cho phù hợp quy chế, pháp luật và đạo đức thầy thuốc. c, Y sĩ Đông Dương - Những “người muôn năm cũ”. Trường Y Đông Dương mở trước khi có bậc trung học, thí sinh trẻ nhất được tuyển mới có 15 tuổi (ví dụ, Phạm Đình Minh, sinh 1887, ở số 100 phố Hàng Gai, hoặc Trần Đình Huy, sinh cùng năm, số 41 Hàng Bạc) chưa có đủ kiến thức cơ bản cần thiết. Họ phải bổ túc Toán, Hoá, Sinh, Pháp văn… Ra trường, với danh hiệu “y sĩ Đông Dương”, hưởng lương như cao đẳng, phụ trách y tế cả một tỉnh và dứt khoát phải làm việc 3 năm ở miền núi (Trần Đình Đệ lên Hoà Bình; Đỗ Xuân Hợp lên Yên Bái, Martin lên Phú Thọ…). Phải 30 năm sau mới có đủ tú tài để trường này chuyển sang đào tạo bác sĩ. Thập niên 50 của thế kỷ trước, y sỹ Đông Dương của những khoá muộn nhất (ra trường từ 1922 tới 1930), chỉ còn sót lại 41 vị. Thời xa lắc đó, trong lễ tốt nghiệp nhiều vị còn mặc quốc phục (áo dài, khăn xếp) dáng dấp như những cụ lang. Điển hình là các cụ Vũ Đình Tụng (bộ trưởng Thương Binh), Nguyễn Kính Chi (thứ trưởng Y Tế), Trần Văn Lai (Đốc Lý Hà Nội), Nguyễn Đức Khởi (giám đốc Y tế Hà Nội), Hoàng Sử (thầy thuốc hoàng gia, sau là chủ nhiệm Bộ Môn X-quang), Đỗ Xuân Hợp (chủ nhiệm bộ môn Giải Phẫu)… Sinh viên Lê Văn Khải khi thực tập ở tỉnh Hoà Bình, đã mô tả cụ Trần Đình Đệ có phong cách như nhân vật Lỗ Túc (thời Tam Quốc). Ngạc nhiên là năm 1955 khi một số vị y sỹ Đông Dương về trường dự sát hạch để được công nhận bác sĩ, họ vẫn có những nét chung rất dễ nhận ra, cứ như đúc từ cùng một cái “khuôn đạo đức” vậy. Đó là tác phong đĩnh đạc; tính cách đôn hậu, nói năng khúc chiết, ôn tồn… 3. Việc dạy quan điểm, đường lối trong ứng xử nghề nghiệp 3.1. Ban đầu, từ 45 vẫn theo nếp cũ - Trong 13 giáo sư đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – công bố tháng 1 và tháng 10-1955 – có 11 vị thuộc ngành Y (1 ở ngành Dược và 1 ở ngành Toán). Điều này không khó hiểu, nếu biết rằng năm 1935 trường này đã làm lễ tốt nghiệp cho khoá tiến sĩ đầu tiên, trong khi các trường khác chỉ đào tạo cử nhân. Các vị này cùng tất cả các vị lão thành khác của ngành Y (tốt nghiệp trước 1945) đều hấp thu đạo đức y học “phi giai cấp” dưới thời thuộc Pháp. - Khi theo cụ Hồ đi kháng chiến (1946), họ hành xử nghề nghiệp và đào tạo sinh viên cũng theo tinh thần ấy, kết hợp thêm tinh thần yêu nước. Trong kháng chiến chống Pháp, sinh viên y năm thứ 3, 4 và 5 đã mặc áo lính, phụ trách quân y cấp tiểu đoàn, trung đoàn và đại đoàn. Mỗi năm họ chỉ được về trường ít tháng để học, do vậy họ rất biết cần học gì. Ứng xử nghề nghiệp không thể dạy thành bài riêng, mà được lồng vào các bài giảng chuyên môn kèm những ví dụ thực tế, trong đó bản thân các thầy và các vị đàn anh là những tấm gương sống động. 3.2. Từ 1952: Bắt đầu giáo dục quan điểm Công-Nông - Mục đích, để sinh viên y khoa thấy rõ, từ nay người chủ đất nước là Công, Nông. Trường này là của công nông, dành cho công nông. Đó là nơi Công Nông được “trí-thức-hoá”, đặng lãnh đạo cách mạng. Thành phần tuyển sinh sẽ thay đổi cơ bản. Còn trí thức, trước đây phục vụ giai cấp thống trị, nay vẫn được đảng sử dụng. Họ phải tự thấy vinh dự được phục vụ công nông và qua đó mà tự cải tạo lập trường, quan điểm. Với mục đích này, từ nay các thầy chuyên môn mất hẳn vai trò dạy ứng xử nghề nghiệp, nhường vị trí này cho các thầy dạy Chính Trị. - Quan điểm mới được quán triệt từ năm 1953, khi trường tham gia cải cách ruộng đất – trước đó là một đợt chỉnh huấn, chuẩn bị tư tưởng. Mỗi người, cả thầy lẫn trò, đều tự kiểm điểm và nêu quyết tâm gột bỏ mọi tư tưởng sai trái. Lớp trẻ nhiệt huyết với lý tưởng Cộng Sản đã tự đề ra quyết tâm: Trí thức phải “công-nông hoá” triệt để. – Tiếp đó, là liên tục các đợt chỉnh huấn khác: dịp tiếp quản Hà Nội (để đề phòng tiêm nhiễm tư tưởng tư sản), dịp đấu tranh chống Nhân Văn – Giai Phẩm (chống tự do kiểu tư sản), hoặc dịp xác định trường đại học Y là một pháo đài XHCN… – Dẫu vậy, ngày 27-2-1955 cụ Hồ gửi thư cho ngành y tế (lạ một điều), Cụ không nhắc tý gì tới quan điểm giai cấp, mà chỉ nhấn 2 điều: Đoàn kết hơn nữa; và phải “biết đau cái nỗi đau của người bệnh”. Khẩu hiệu Cụ nêu: “Thầy thuốc giỏi phải như mẹ hiền”. Như vậy, hai vế mà một bậc danh y Trung quốc đề ra (nói về Tài và Đức thầy thuốc: Lương y như luơng tướng và Lương y như từ mẫu) cụ Hồ chỉ dùng vế thứ hai. May thay, chính nhờ vậy, sinh viên y (thuộc giai cấp tiểu tư sản) tuy một mặt phải phấn đấu về quan điểm, lập trường để được coi là con em Công Nông, nhưng mặt khác vẫn được phép tu dưỡng y đức để trở thành mẹ hiềncủa bệnh nhân, trước hết là bệnh nhân công-nông. 3.3. Tăng cường học Chính Trị - Lập trường vững vàng sẽ đương nhiên sinh ra cách ứng xử phù hợp với bệnh nhân – đa số là công-nông. Chương trình mới (năm 1958) đã dành tới 1/6 thời gian để sinh viên rèn Chính Trị. Trên thực tế, cách gì cũng không thực hiện nổi cái chương trình đó – kể cả mỗi năm dành ra 1- 2 tháng đưa sinh viên về nông thôn và vùng mỏ để “học tập công nông”. Trong khi đó, các môn y học bị cắt giàm tối đa. Kế hoạch đào tạo bác sĩ chỉ cần 4 năm mới thực hiện một năm đã phá sản. Rốt cuộc, từ 1962 lại quay về quy định của bộ Đại Học: môn Chính Trị được sử dụng 12% thời gian khoá học 6 năm. – Thi tốt nghiệp: Từ 1959, sinh viên không cần luận án tốt nghiệp, mà thi 2 môn: Chuyên môn và Chính Trị (hồng), trong đó “hồng” quan trọng hơn “chuyên”. 3.4. Phương châm y tế - Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đề ra 5 phương châm y tế, được quán triệt rất kỹ trong toàn ngành. Câu chữ theo thời gian có thể thay đổi, nhưng nội dung cơ bản vẫn vậy (y tế phục vụ công-nông-binh, phục vụ sản xuất và chiến đấu; đi đường lối quần chúng; phòng bệnh hơn chữa bệnh; kết hợp Đông-Tây y…). Trường Y Hà Nội vận dụng bằng cách: lập ra bộ môn Đông Y, tăng thêm giờ cho môn Vệ Sinh, hàng năm cho sinh viên đi lao động ở nông thôn kết hợp tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh… - Dù quan điểm có được nâng cao, nhưng việc vận dụng chúng vào cách ứng xử cụ thể khi hành nghề… lại hoàn toàn không dễ dàng. Các thầy chính trị không bao giờ đi theo sinh viên tới bệnh viện để hướng dẫn cách ứng xử “đúng” (ngay cả với bệnh nhân là Công-Nông) và uốn nắn những ứng xử “sai”. - Điều may mắn là cái khẩu hiệu phi giai cấp Thầy thuốc như mẹ hiền vẫn còn được đề cao, các thầy chuyên môn đã dựa vào đó để dạy sinh viên về thái độ ứng xử nhân đạo với mọi người bệnh (bệnh nhân có địa vị cao trong xã hội mới có bệnh viện riêng, sinh viên không bao giờ tới đó thực tập). - Cũng chính nhờ cái khẩu hiệu phi giai cấp đó mà về sau Bộ Y Tế dựa vào để có thể ban hành bản Quy Định ứng xử cho nhân viên y tế toàn ngành. Đó là các tiêu chuẩn để nhân viên y tế trở thành “mẹ hiền”, bất kể trước mặt mình người bệnh bao nhiêu tuổi. 3.5 Đổi Mới là quá trình gian khổ - Cuốn sơ thảo Lịch Sử 70 năm của trường, do các thầy bộ môn Mác-Lê viết ra (1972) đã thoá mạ “không tiếc lời” quá khứ 43 năm dưới thời thuộc Pháp. Nhưng khi kỷ niệm 80 năm thành lập, thì cái “quá khứ đẹp” này bắt đầu được thừa nhận. Tới khi kỷ niệm 90 năm, Tổng bí thư tới dự lễ phát huân chương Độc Lập và quá khứ truyền thống mới được phục hồi tôn vinh. – Từ thập niên 80, dưới sức ép của các thầy lão thành, trường dạy lại Đạo Đức Hành Nghề. Tuy vậy, các bậc lão thành chưa được đứng trên bục, mà vị trí này vẫn dành cho các thầy Chính Trị. Họ viết ra giáo trình Đạo Đức Học, theo đúng quan điểm Mác-Lênin, tuy rất hay, nhưng cũng rất khó vận dụng vào ứng xử nghề nghiệp. Gần hai chục năm, sinh viên đã học và thi theo giáo trình này. – Lời Thề tốt nghiệp cũng được phục hồi, nhưng chưa thể gọi đó là lời thể nghề nghiệp (ví dụ, “thề” giữ gìn kỷ luật)… 3.6. Hãy thôi thuyết trình đạo đức. Mà dạy thái độ để tạo kỹ năng ứng xử. Phương pháp sư phạm hiện đại cho thấy, trong giáo dục có 3 (và chỉ cần 3) mục tiêu: Kiến thức, Thực hành và Thái Độ. Phương pháp này vận dụng vào y học không những cho phép “tích cực hoá người học”, mà dạy mục tiêu “Thái Độ” chính là nhằm giúp người học ứng xử đúng khi giao tiếp với đối tượng nghề nghiệp (bệnh nhân, người nhà họ, đồng nghiệp và dân cư trong cộng đồng). Nói khác, điều cần đạt là sự hình thành kỹ năng giao tiếp cho người học. Ví dụ, họ phải có kỹ năng giải thích, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng an ủi…v.v. Tóm lại, đó là dạy kỹ năng chung sống nói chung và phải dạy ngay từ bậc tiểu học. Lên bậc đại học, chính là môn học dạy ứng xử nghề nghiệp. Hoá ra, từ thời thuộc Pháp trường Y đã có môn này. Nhớ rằng 4 trụ cột vững chắc của ngôi nhà Giáo Dục (được UNESCO đề ra cho thế kỷ XXI) là: Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tồn tại. 4. Vài suy nghĩ về chất lượng đào tạo bác sĩ đa khoa hiện nay - Trước năm 1975, muốn vào Trường Y khoa Sài Gòn chẳng hạn thì phải đậu được năm dự bị ĐH. Chương trình của năm này giống chương trình MCAT vậy. Do đó sinh viên y khoa trước năm 1975 là bảy năm, bây giờ còn sáu năm. - Chương trình đào tạo y khoa tại Việt Nam chúng ta cũng giống các nước lân cận và đa số các nước châu Âu. Tuy nhiên, các nước châu Âu người ta đầu tư bài bản cho nên dạy và học, mỗi trường y khoa hằng năm không tuyển quá 100 sinh viên. - Trên thế giới, chương trình khoa học cơ bản trong trường y khoa những năm đầu rất quan trọng, sau đó chương trình y học lâm sàng cũng rất nặng, kể cả việc giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn sinh viên tại giường bệnh phải cần đội ngũ thầy cô giỏi, họ không chỉ là những người luôn hiểu biết kiến thức y khoa sâu, rộng trong ngành mà còn là hình ảnh đạo đức chuẩn mực trong ngành y cũng như trong cuộc sống. - Hiện tại ở Việt Nam chúng ta, vì nhu cầu bác sĩ để phục vụ xã hội quá cao mà thời gian đào tạo bác sĩ lại dài, những yếu tố đó làm chúng ta dễ thỏa hiệp ước muốn giảng dạy bác sĩ giống như giảng dạy ngành nghề khác. - Với tình trạng này thì hiện tại bệnh nhân đang trở thành hàng hóa (nơi phổ cập ISO thì gọi là khách hàng). Bác sĩ cũng đang biến mình thành loại hàng hóa. Bác sĩ tự “treo giá” và bên phía tìm kiếm nguồn lực nhân sự chuyên môn cũng đang đau đầu về việc lập giá để tuyển nhân sự, nhất là ở bệnh viện, phòng khám tư nhân. Tay nghề bác sĩ và chính sách để có nguồn nhân lực chuyên môn của chúng ta hiện tại đang có chênh nhau rất nhiều so với thế giới. - Mặt khác, thực trạng sinh viên y khoa đông, thiếu thầy hướng dẫn lâm sàng. Thầy phải chịu áp lực quá nhiều công việc công và tư, thời gian dành cho sinh viên không nhiều, thiếu kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng. Sự giúp đỡ của nhà trường và thầy đối với sinh viên còn hạn chế, không đủ năng lực trực tiếp chỉ dạy, do đó chất lượng thấp là điều dể hiểu. - Nhà nước cần thông thoáng hơn, cho phép mở trường y khoa hoặc khoa y với điều kiện cao hơn: Mức đầu tư/sinh viên phải cao (hiện nay chi phí đào tạo cho một sinh viên y khoa là 36 triệu đồng đồng/năm, so với nước ngoài trung bình từ 30.000 đến 80.000 USD/năm!), hợp tác quốc tế trong đầu tư, liên kết đào tạo y khoa, thay đổi chương trình dạy y khoa, tạo chủ động cho sinh viên hơn, tránh học từ chương, chấp nhận chương trình giảng dạy ở các nước tiên tiến như Hoa Kỳ chẳng hạn. Không cần phải nghiên cứu thêm gì khác vì người ta đã thành công hàng trăm năm rồi. Nên chấp nhận quan điểm “muốn có bác sĩ chất lượng cao thì giá phải đắt”, đã trả giá đắt để đào tạo rồi thì người bệnh được trả giá thấp hơn, xã hội sẽ tiết kiệm được nhiều hơn từ y tế. - Hiện tại chúng ta có trên 15 trường ĐH y khoa công lập và có một số khoa y của trường ĐH tư thục đang hoạt động là tương đối ổn nhưng cũng có thể mở một vài trường y nữa với chất lượng cao. Vấn đề là chúng ta phải “tập thay đổi chương trình và phương pháp giảng dạy”. Thí dụ nên tuyển đầu vào là cử nhân ĐH Khoa học Tự nhiên hoặc ĐH Tổng hợp hoặc những trường ĐH có những môn học phù hợp để sinh viên có thể thi vào trường y khoa. Chúng ta có nhiều chương trình đào tạo sinh viên y khoa như đào tạo sáu năm, tám năm (bốn cử nhân khoa học + bốn năm y khoa) chẳng hạn. - Tình trạng thiếu bác sĩ ở Việt Nam, đặc biệt ở các vùng như Đồng bằng sông Cửu Long, rất nghiêm trọng và đã kéo dài qua nhiều năm nhưng vẫn chưa cải tiến. Trước nhu cầu lớn như thế, không ngạc nhiên khi các quan chức muốn mở rộng các chương trình đào tạo y khoa. Nhưng cũng như bất cứ ngành nghề nào, số lượng và phẩm chất là hai khía cạnh rất khác nhau. Trong ngành y, vì có liên quan đến tính mạng của con người, nên phẩm chất đào tạo – chứ không phải số lượng – cần phải xem là ưu tiên hàng đầu. - Tuy nhiều người phàn nàn rằng Việt Nam thiếu bác sĩ, nhưng con số thực tế cho thấy một bức tranh khác. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, ở VN cứ 10,000 dân thì có 12 bác sĩ, và con số này tương đương (hoặc cao hơn) so với Thái Lan và Malaysia (12 trên 1 vạn dân), nhưng thấp hơn so với các nước Âu châu (khoảng 40 bác sĩ trên 1 vạn dân). Tuy nhiên, tình trạng thiếu bác sĩ ở vùng ĐBSCL có thể xem là nghiêm trọng. Tính trung bình, cứ 10,000 dân trong vùng ĐBSCL chỉ có 5~6 bác sĩ, tức chỉ bằng phân nửa tỉ lệ quốc gia. - Đứng trước tình hình thiếu thốn bác sĩ và nhu cầu sức khoẻ đặt ra trong cộng đồng, không ai ngạc nhiên khi các quan chức nóng lòng đào tạo nhiều bác sĩ để đáp ứng nhu cầu. Nhưng cũng vì sự hấp tấp này mà một số chương trình đào tạo y khoa ở ĐBSCL được xem là “không giống ai”. Thật ra, có thể nói rằng hầu hết các chương trình đào tạo y khoa, nhất là sau đại học, của VN cũng khác với thế giới. - Ở Việt Nam sinh viên có thể theo học ngành y theo chương trình “cử tuyển” hay nâng cấp từ y sĩ trung cấp thành bác sĩ (!). Ngành y có liên quan mật thiết đến con người, do đó, những người theo học phải được tuyển chọn rất cẩn thận, chứ không có cử tuyển. Ứng viên không chỉ phải có điểm tốt nghiệp trung học rất cao, mà còn phải qua một kì phỏng vấn để sàng lọc những ứng viên thật sự có tâm. qui trình với các câu hỏi chủ yếu nhắm đến việc tuyển chọn những ứng viên thật sự quan tâm đến việc phục vụ người dân chứ không phải vào ngành y để … kiếm tiền. - Ở Việt Nam, chương trình học y khoa dành khá nhiều thời lượng (lên đến 25%) cho các môn học chính trị và kinh tế. Chẳng hạn như ở trường y, tổng số đơn vị học là 320, trong đó có đến 82 đơn vị là liên quan đến lịch sử triết học, triết học Mác Lê, Kinh tế chính trị Mác Lê, lịch sử Đang, chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh, v.v. trên thế giới, sinh viên y khoa không học các môn học chính trị và triết học hay kinh tế học; thay vào đó, họ học y đức và khoa học xã hội và nhân văn. - Thời gian đào tạo bác sĩ đa khoa ở các nước không khác so với Việt Nam, nhưng có khác biệt rất lớn về đào tạo bác sĩ chuyên khoa. Ở các nơi trên thế giới (có lẽ ngoại trừ China), không có chương trình đào tạo “Chuyên khoa I” và “Chuyên khoa II” như ở Việt Nam, và thời gian đào tạo cũng không phải chỉ 2-3 năm. Có thể nói rằng theo cái nhìn của thế giới, các bác sĩ chuyên khoa ở VN không phải là bác sĩ chuyên khoa như ở nước họ, nơi mà việc tuyển chọn rất khắt khe và chương trình đào tạo rất chặt chẽ. - Theo thống kê, mỗi năm các trường y đào tạo được 6500 bác sĩ. Với một số lượng bác sĩ tốt nghiệp như thế, và những tai nạn nhiều như gần đây, thì không ngạc nhiên khi công chúng nêu vấn đề chất lượng. Nhưng ít ai nêu câu hỏi cụ thể: thế nào là chất lượng đào tạo trong ngành y. - Đầu vào ngành y ở VN rõ ràng không đồng đều. Ngoại trừ ở các đại học lớn và lâu đời có điểm vào ngành y rất cao, còn các trường mới mở thì điểm chưa được xứng đáng với ngành y. Ngoài ra, tình trạng cử tuyển và đào tạo nâng cấp cũng là một vấn đề có thể ảnh hưởng đến chất lượng ngành y. Có thể tham khảo mô hình tuyển chọn của Úc và Mĩ, tức chuyển đào tạo bác sĩ sang mô hình sau đại học, theo đó ứng viên phải tốt nghiệp cử nhân với hạng tốt và phải qua một kì thi tuyển và phỏng vấn để nhận dạng người có khả năng. Dĩ nhiên, vẫn có cơ chế ưu tiên cho các ứng viên vùng sâu vùng xa, và phỏng vấn là một mô hình tuyển chọn rất tốt. - Chương trình đào tạo ngành y ở VN (chỉ nói các trường lớn và tương đối lâu đời) về tên gọi và danh nghĩa cũng không khác so với các trường nước ngoài. Nhưng trong thực tế thì có sự khác biệt lớn về nội dung và cơ sở vật chất giữa các nước và Việt Nam. Ở nhiều nơi trên thế giới (ngay cả Thái Lan), sinh viên y khoa học khá nhiều về khoa học cơ bản và sinh học với thực hành trong labo, nhưng ở VN thì vẫn còn thiếu thầy cô có kinh nghiệm và labo cho sinh viên. Vì thế không ngạc nhiên khi rất nhiều bác sĩ VN chưa cập nhật nổi những kiến thức cơ bản về sinh học, di truyền học, và sinh hoá vốn rất quan trọng cho ngành y. Ngoài ra, nghiên cứu về sinh học ở các trường y VN còn rất lu mờ. Số bài báo khoa học quốc tế về sinh học của các trường y VN chỉ đếm đầu ngón tay, và phần lớn là do hợp tác với nước ngoài. Trong khi đó số bài báo về sinh học của một đại học Hàn Quốc (như Đại học quốc gia Seoul) đã cao gấp 2 lần tổng số bài báo về sinh học của Việt Nam. - Rất khó đánh giá chất lượng đầu ra, nhưng chúng ta có thể so sánh với một số nước chung quanh về tỉ lệ thi tuyển y khoa. Ở Úc, các bác sĩ tốt nghiệp ở ngoài nước Úc có thể hành nghề y nếu họ qua một kì kiểm định về kiến thức và kĩ năng lâm sàng do Hội đồng Y khoa Úc điều hành. Kết quả kiểm định của các bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam không được khả quan. Chẳng hạn như năm 2009, có 19 bác sĩ thi về kiến thức y khoa, và chỉ có 7 người (~37%) được đỗ. (Tỉ lệ này tương đối thấp khi so với bác sĩ Miến Điện (100% đỗ), Ấn Độ (52%), Nam Phi (68%), và Trung Quốc (43%)). Tỉ lệ bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam đỗ về lâm sàng cũng chỉ dao động trong khoảng 30-50%, và thấp hơn các bác sĩ từ các nước như Philippines, Ấn Độ và Miến Điện. Tổng hợp từ Nguyễn Ngọc Lanh, (nguyên GS đại học Y Hà Nội; NGND); Nguyễn Văn Tuấn (GS ĐH Úc), Bác sĩ Nguyễn Hữu Tùng (GĐ BV Hoàn Mỹ)… 1 CHÂU ÂU
1.1 Pháp Ở Pháp, các Généraliste Medecin (thường được gọi là Docteur) chịu trách nhiệm cho việc chăm sóc dài hạn trong dân cư. Điều này ngụ ý đảm trách các công việc phòng ngừa, giáo dục, chăm sóc người bệnh và chấn thương mà không yêu cầu một chuyên gia, và định hướng chuyển đến một chuyên gia khi cần thiết. Họ cũng thực hiện chăm sóc các bệnh nghiêm trọng ngày ngày này qua ngày khác (chuyển về từ các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đòi hỏi phải có sự can thiệp của một chuyên gia). Họ có một vai trò trong các cuộc khảo sát về dịch bệnh, vai trò pháp lý (chuyên gia cho các chấn thương có thể đưa tiền đền bù, chứng chỉ hành nghề của một môn thể thao, giấy chứng nhận tử vong, chứng nhận cho nhập viện mà không có sự đồng ý trong những trường hợp không đủ năng lực tâm thần), và một vai trò trong chăm sóc khẩn cấp (họ có thể được gọi bởi các Samu, EMS Pháp). Họ thường đi đến nhà bệnh nhân khi bệnh nhân không thể đến phòng tư vấn (đặc biệt là trong trường hợp của trẻ em hoặc người già)…. Việc học gồm sáu năm trong trường đại học (chung cho tất cả các chuyên khoa), và ba năm như một học trình chuyên khoa cơ sở (interne): Năm đầu tiên (Première Année, Etudes de Santé, thường viết tắt P1), là chung với các nha sĩ, dược sĩ và nữ hộ sinh. Các sinh viên có thể chọn mức học qua các kỳ thi cạnh tranh để xếp ngành. Hai năm sau (gọi là propédeutique), được dành riêng cho việc học các ngành khoa học cơ bản: giải phẫu, sinh lý học, hóa sinh, vi khuẩn học, thống kê ... Ba năm tiếp sau (được gọi là externat), được dành riêng cho các học tập và nghiên cứu y học lâm sàng; kết thúc bằng một cuộc kiểm tra phân loại, xác định cấp bậc của các Généraliste Medecin; đặc biệt một ít trong số đó có thể thi đỗ và trở thành internat (bác sĩ nội trú); Bác sĩ nội trú (internat) học ba năm hoặc hơn phụ thuộc vào chuyên ngành; các interne có thể kê toa, có thể thay thế bác sĩ trong chẩn đoán điều trị, và thường làm việc trong một bệnh viện. Kết thúc việc học là một học vị tiến sĩ, với một công trình nghiên cứu - thường là một nghiên cứu thống kê các trường hợp để đề xuất một chiến lược chăm sóc cho một bệnh cụ thể (hay trong một điểm dịch tễ học, chẩn đoán, hoặc điều trị …). 1.2 Hà Lan và Bỉ Thực hành GP ở Hà Lan và Bỉ được xem là tiên tiến. Các huisarts (nghĩa đen: "bác sĩ gia đình") quản lý toàn bộ việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, chăm sóc 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Ở Hà Lan, bệnh nhân không thể tham khảo một chuyên gia bệnh viện mà không có giấy giới thiệu theo yêu cầu của GP. Hầu hết các bác sĩ làm việc trong các trung tâm y tế tư nhân. Nhiều bác sĩ quan tâm chăm sóc chuyên khoa, ví dụ như trong chăm sóc giảm nhẹ. Tại Hà Lan, chương trình đào tạo gồm ba năm chuyên môn (toàn thời gian) sau khi hoàn thành 3 năm thực tập. Năm đầu tiên và năm thứ ba việc huấn luyện diễn ra tại một GP thực tế. Năm thứ hai của của chương trình đào tạo bao gồm đào tạo sáu tháng ở phòng cấp cứu, (hoặc khoa nội, nhi khoa, phụ khoa, hoặc kết hợp học tập ở các khoa một bệnh viện đa khoa), ba tháng huấn luyện tại một phòng khám bệnh viện (hoặc bệnh viện tâm thần) và ba tháng tại một nhà dưỡng lão nhà (verpleeghuis) hoặc khoa lão khoa lâm sàng tại nhà thương. Năm đầu tiên, nhấn mạnh rất nhiều vào kỹ năng giao tiếp với đào tạo thông qua video. Ngoài ra, tất cả các khía cạnh khi làm việc như một bác sĩ đều được đề cập, bao gồm làm việc với các tiêu chuẩn y tế từ các hiệp hội GP Dutch NHG (Nederlands Huisartsen Genootschap) đề ra. Tất cả các bác sĩ đa khoa cũng phải làm bài kiểm tra kiến thức GP quốc gia (Landelijke Huisartsgeneeskundige Kennistoets (LHK-toets )) hai lần một năm. Thử nghiệm này gồm 120 câu hỏi trắc nghiệm về các vấn đề y tế, đạo đức, khoa học và pháp lý mà GP được giải quyết. 1.3 Tây Ban Nha Ở Tây Ban Nha – khi đã là GP chính thức (especialistas en Medicina) thường được gọi là "y si de cabecera" hay "y si de familia". Hầu hết các bác sĩ Tây Ban Nha làm việc cho cơ quan y tế do nhà nước tài trợ thông qua các cơ quan chính phủ trong khu vực (Comunidad Autónoma). Đối với việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc chính, Tây Ban Nha các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cơ bản hiện đang được chia theo địa lý khu vực, mỗi khu vực có một đội chăm sóc sức khỏe ban đầu (Equipo de atención primaria). Mỗi đội là đa ngành và thường bao gồm các bác sĩ đa khoa, bác sĩ nhi khoa cộng đồng, y tá, vật lý trị liệu và lao động xã hội, cùng với đội ngũ nhân viên phụ trợ. Tại các khu vực đô thị tất cả các dịch vụ được tập trung ở một tòa nhà lớn duy nhất (Centro de salud) trong khi ở khu vực nông thôn được hỗ trợ bởi các chi nhánh nhỏ hơn (consultorios), thường xử lý đơn giản hơn. Trở thành một bác sĩ ở Tây Ban Nha thông qua việc học tập và nghiên cứu y học 6 năm, sau 2 năm học đầu phải trải qua một kỳ thi quốc gia cạnh tranh gọi là MIR (Medico Interno Residente) và chương trình đào tạo 4 năm tiếp theo. Các chương trình đào tạo bao gồm các đơn vị học trình cốt lõi của y học và thực hành nói chung như nội khoa, ngoại khoa, nhi khoa, phụ khoa, chỉnh hình và tâm thần học. Các đơn vị học trình ngắn hơn và tùy chọn như tai mũi họng, khoa mắt, ED, bệnh truyền nhiễm, rheumathology hoặc những nội dung khác thêm vào của chương trình đào tạo 4 năm. 1.4 United Kingdom Con đường để trở thành một bác sĩ ở Anh rất chông gai. Đầu tiên, sinh viên phải thi vào học kiến thức y khoa ở trường y trực thuộc một trường ĐH và thực hành khám, chữa bệnh ở bệnh viện. Thời gian này kéo dài sáu năm. Tiếp theo là hai năm theo đuổi chương trình nền, nghiên cứu, thẩm tra năng lực mình ở nhiều chuyên ngành khác nhau để chọn ra một chuyên ngành mình sẽ theo đuổi. Mọi sinh viên y khoa đều phải trải qua giai đoạn này trước khi bước vào giai đoạn đào tạo chuyên ngành với thời gian 3-6 năm tùy chuyên ngành. Ở Vương quốc Anh, theo chương trình Hiện đại hoá Nghề nghiệp y tế hiện nay, thầy thuốc GP tốt nghiệp từ năm 2005 trở đi phải tiếp tục ít nhất là 5 năm đào tạo sau đại học. Trong chương trình đào tạo GP, các học viên y tế phải hoàn thành một loạt các đánh giá để được hành nghề độc lập như một GP. Có một bài thi dựa trên tri thức với các câu hỏi trắc nghiệm kiến thức được gọi là các ứng dụng (AKT). Việc kiểm tra thực tế có dạng của một "phẫu thuật mô phỏng", trong đó các bác sĩ được trình bày 13 trường hợp lâm sàng và việc đánh giá được thực hiện qua thu thập dữ liệu, kỹ năng giao tiếp và quản lý lâm sàng. Ngoài ra Clinical Skills Assessment (CSA) được tổ chức vào khoảng ba hoặc bốn lần trong suốt cả năm và diễn ra tại trụ sở của Đại học Royal College (RCGP), tại London. Cuối cùng trong suốt cả năm các bác sĩ phải hoàn thành một danh mục thư điện tử được tạo thành từ các cuộc thảo luận trường hợp trên, phê bình của các tham vấn được ghi hình và các mục phản chiếu vào một "nhật ký học tập". GPs ở Vương quốc Anh có thể hoạt động tại các trung tâm y tế cộng đồng. GP làm phẫu thuật là miễn phí trong tất cả các nước của Vương quốc Anh, nhưng chi phí cho toa thuốc thì khác nhau. Wales, Scotland và Bắc Ireland đã bãi bỏ tất cả các chi phí. Một người tự làm chủ GP toàn thời gian, chẳng hạn như một GMS hay PMS, hiện nay có thể được hưởng một phần lợi nhuận khoảng £ 95.900 trước thuế, trong khi một bác sĩ làm việc cho một CCG có thể kiếm được một mức lương trong khoảng £ 54.863 đến £ 82.789. Điều này có thể tương đương với một mức lương giờ của khoảng 40 £ một giờ cho một đối tác GP. 1.5 Hy Lạp Thực hành nói chung đã được thành lập như là một chuyên khoa ở Hy Lạp năm 1986. Để hội đủ điều kiện như là một General Practitioner (γενικός ιατρός, genikos Iatros) các bác sĩ ở Hy Lạp được yêu cầu phải hoàn thành bốn năm đào tạo nghề sau khi học y tế, trong đó có ba năm và hai tháng trong một bệnh viện. Các học viên ở Hy Lạp có thể làm việc như các chuyên gia tư nhân hoặc cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe quốc gia, ESY (Εθνικό Σύστημα Υγείας, ΕΣΥ). 1.6 Ukraina Hệ thống giáo dục đại học trong lĩnh vực Y khoa ở Ukraina có lịch sử phát triển lâu đời và giàu truyền thống. Các ngành nổi trội: - Bác sỹ Đa Khoa (thời gian đào tạo 06 năm) - Bác sỹ Răng – Hàm – Mặt (thời gian đào tạo 06 năm) - Nha Khoa Phẫu Thuật (thời gian đào tạo 05 năm) - Dược (thời gian đào tạo 05 năm) Học phí - chi phí tham khảo: - Dự bị tiếng Nga: 1800 - 2500 USD - Ngành Y: 4000 - 4800 USD/năm (hệ tiếng Anh), 3000 – 4000 USD/ năm (hệ tiếng Nga) - Ký túc xá: 500 - 1000 USD/năm - Tiền ăn: 2000 - 2500 USD/năm - Bảo hiểm: 100 – 200 USD 2. BẮC MỸ 2.1 Hoa Kỳ Như ở Mỹ và Canada, đại đa số các trường y khoa đều có chương trình bốn năm để thành bác sĩ đa khoa (Medical Doctor). Tuy nhiên, sinh viên muốn vào thì phải trúng tuyển kỳ thi MCAT (Medical Colleges Admission test) và một bài khảo sát để biết ước muốn sinh viên về nghề y và cuối cùng là trải qua kỳ phỏng vấn của hiệu trưởng trường. Mục tiêu là để tìm kiếm và xác lập y đức cho được một bác sĩ tương lai ngay từ đầu vào. Chương trình MCAT giống chương trình học ĐH khoa học tự nhiên và khoa học cơ bản ở nước ta cộng với kiến thức y khoa cơ bản. Do đó nó không giống như thi ở ta, ở ta thi toán, hóa, sinh thì gần giống như thi cuối khóa THPT, điều này chỉ có thể áp dụng cho chương trình sáu năm ĐH. Như ở Mỹ, sau bốn năm học cử nhân khoa học, sinh viên phải có điểm trung bình theo yêu cầu thì mới đủ điều kiện nộp đơn thi vào trường y khoa. Nếu đậu thì sinh viên học thêm bốn năm y khoa, hai năm lấy bằng USMLE-1 (United State Medical Lisence Examination) và hai năm lấy bằng USMLE-2 và trở thành bác sĩ đa khoa - M.D), học tiếp tục vào nội trú (Recidency - đây là chương trình bắt buộc ai cũng phải học, dù chỉ muốn làm bác sĩ tổng quát, bác sĩ gia đình hay giải phẫu). Nhưng nếu học đa khoa, nội khoa thì dễ hơn khoa phẫu thuật hay nhãn khoa... Thời gian học chuyên khoa thì tùy vào chuyên ngành chọn, thường là ba năm (nội khoa) hoặc 5-7 năm (phẫu thuật, chỉnh hình…). Trong thời gian học chuyên khoa thì phải thi lấy bằng USMLE-3. Học chuyên khoa nhưng người học được trả lương, nhiều nơi còn có thêm tiền ăn, sách vở, kinh phí đi tham dự các hội nghị. Sau khi lấy được USMLE-3, bác sĩ có thể khám bệnh, tham gia thủ thuật! Khi đã trở thành bác sĩ hành nghề, họ được quản lý bởi hiệp hội y-sĩ đoàn. Đây là hiệp hội tư nhân độc lập và quản lý về ngành nghề, luật pháp hành nghề, kể cả luật y đức. Đào tạo GP - Để trở thành một MD nói chung, sinh viên phải hoàn thành chương trình 4 năm đại học, một chương trình y tế 4 năm, và một chương trình residency 1- 2 năm. Chương trình 4 năm đại học Pre-med bao gồm các khóa học về: Giải phẫu học, sinh học, hóa học (hữu cơ và vô cơ), toán học, vật lý và sinh lý học. Học sinh cũng học khoa học xã hội và nhân văn (ví dụ, xã hội học, tâm lý học, nhân chủng học, ngoại ngữ, văn học). Học sinh phải là người quan tâm đến chuyên đề chăm sóc sức khỏe, thường xuyên tình nguyện làm việc tại các bệnh viện địa phương trong khi họ đang làm việc trên văn bằng đại học của họ (ví dụ, Cử nhân Khoa học). Một số sinh viên đạt được bằng cấp cao (ví dụ, thạc sĩ) trước khi vào trường y. Xét tuyển vào trường y tế là rất cạnh tranh. Ứng viên phải nộp bảng điểm trường học, thư giới thiệu, và một bài luận tuyển sinh. Họ cũng phải có những thử nghiệm Medical College Admission (MCAT) và phỏng vấn với ban tuyển sinh. Ngoài hồ sơ học sinh học tập, các phẩm chất lãnh đạo, và việc tham gia vào các hoạt động ngoại khóa (ví dụ, các tổ chức cộng đồng, các câu lạc bộ trường học, công việc tình nguyện) cũng được xem xét. Trong chương trình học y tế 4 năm của trường y khoa, thì 2 năm đầu tiên, sinh viên tập trung vào các khóa học sau đây: Cơ thể học; Hóa sinh; Luật liên quan đến y học; Y đức; Vi sinh vật; Bệnh học; Dược học; Sinh lý học; Tâm lý học Sinh viên Y cũng tìm hiểu làm thế nào để có một lịch sử y tế của bệnh nhân và làm thế nào để thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất và xét nghiệm chẩn đoán. Trong 2 năm cuối của trường y khoa, sinh viên làm việc dưới sự giám sát của bác sĩ được cấp phép tại các bệnh viện và phòng khám. sinh viên y năm thứ ba và thứ tư tìm hiểu làm thế nào để cung cấp chăm sóc y tế toàn diện. Việc đào tạo của họ bao gồm các phép quay vòng ở các khu vực khác nhau của y học lâm sàng (ví dụ, nội khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, tâm thần, giải phẫu…). Sau khi tốt nghiệp từ một trường y tế được công nhận, các bác sĩ với mức độ là một Bác sĩ Y khoa (MD) lại nhập vào một chương trình đào tạo y khoa sau đại học được gọi là residency. Residency liên quan đến việc đào tạo trong quá trình làm việc, thường là trong một bệnh viện hoặc phòng khám. Residency cho một học viên nói chung là khoảng 2 năm. Sau khi hoàn thành residency của mình, các bác sĩ đa khoa phải có và vượt qua một kỳ thi cấp giấy phép. Mỗi tiểu bang, cũng như District of Columbia và tất cả lãnh thổ Mỹ, đòi hỏi bác sĩ để được cấp phép. Các bác sĩ thường chuyên về y học gia đình hoặc nội khoa. Sau khi hoàn thành thêm 3 năm đào tạo và vượt qua một bài thi viết thành công, các bác sĩ gia đình có thể được xác nhận của Ban y học gia đình và nội tiết của Mỹ (ABFM) hoặc có thể được xác nhận của Ban nội khoa Mỹ (AB of Internal Medicine). Các bác sĩ gia đình được đào tạo đặc biệt để chẩn đoán và điều trị trong mọi điều kiện. Đào tạo của họ tập trung vào việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho cả gia đình và bao gồm nhi khoa, nội khoa, sản khoa và phụ khoa, bệnh tâm thần, lão khoa, y học dự phòng, và khoa học hành vi. Nội khoa chuyên điều trị y tế của người lớn. Bác sĩ gia đình và bác sĩ nội tiết chuyển bệnh nhân đến các chuyên khoa khi thích hợp. Để duy trì chứng nhận của hội đồng quản trị, các bác sĩ gia đình và bác sĩ nội tiết thường xuyên phải tham gia chương trình đào tạo liên tục (CME) (ví dụ, trung bình 50 giờ mỗi năm) và phải vượt qua một bài thi viết trong chuyên môn của họ. Ban đặc cách cũng xem xét về trình độ của bác sĩ trong một số lĩnh vực, bao gồm, tính chuyên nghiệp, chuyên môn y tế, hiệu năng thực hành, tự đánh giá, và học tập suốt đời. Các bác sĩ gia đình và bác sĩ nội tiết có thể được đào tạo thêm và vượt qua kỳ kiểm tra bổ sung để trở thành chuyên gia (subspecialize) trong một số lĩnh vực như y học lão khoa, thuốc giảm đau, thuốc ngủ, và y học thể thao, lĩnh vực nội khoa gồm dị ứng và miễn dịch, tim mạch, nội tiết, tiêu hóa, huyết học, bệnh truyền nhiễm, thận học, khoa khoa ung thư, phổi, và cơ xương khớp. 2.2 Canada Trường Cao đẳng thực hành chung của Canada được thành lập vào năm 1954 nhưng năm 1967 đổi tên thành Trường Cao đẳng Bác sĩ gia đình của Canada (CFPC). 3. CHÂU ĐẠI DƯƠNG 3.1 Úc Ở Úc chương trình đào tạo bác sĩ cấp đại học thường theo hai mô hình chính. Mô hình thứ nhất có thể tạm gọi là “mô hình cử nhân”; theo đó, các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông xuất sắc được tuyển chọn qua kì thi có tên là UMAT (Undergraduate Medicine and Health Sciences Admission Test) và phỏng vấn cá nhân. “Xuất sắc” ở đây có nghĩa là điểm tốt nghiệm trung học phổ thông phải ở mức 99-100%. Sinh viên được tuyển thường theo học 5-6 năm (tuỳ trường) và tốt nghiệp với bằng cử nhân y khoa và cử nhân phẫu thuật (MBBS). Nhưng bắt đầu từ 2011, một số trường y của Úc đã theo xu hướng chung trên thế giới và thay đổi tên văn bằng MBBS thành M.D (tức Doctor of Medicine). Mô hình thứ hai là mô hình sau đại học, và gần đây (từ 2011) được nhiều trường y ở Úc ưa chuộng. Theo mô hình này, các thí sinh đã tốt nghiệp cử nhân với hạng xuất sắc muốn theo học y khoa sẽ được tuyển chọn qua một kì thi GAMSAT (Graduate Australian Medical Schools Admission Test) và phỏng vấn cá nhân. Với mô hình này, sinh viên theo học y khoa 4 năm, và cũng tốt nghiệp với văn bằng M.D. Có thể nói rằng mô hình sau đại học rất tương đương với mô hình đào tạo y khoa ở Mĩ. Chương trình huấn luyện cấp cử nhân (MBBS hay MD) thường được cơ cấu thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 là chương trình học cơ bản (7-8 course), như quá trình phát triển của một cá nhân, lão hoá, môi trường, xã hội, và y đức. Giai đoạn 2 là học tiền lâm sàng. Giai đoạn 3 là tập trung học về lâm sàng, nhưng vẫn học khá nhiều môn về khoa học cơ bản và khoa học xã hội. Ba giai đoạn học kéo dài khoảng 5-6 năm. Sau khi tốt nghiệp M.D (hay MBBS) các bác sĩ còn phải qua hai giai đoạn huấn luyện trước khi hành nghề độc lập. Tất cả các sinh viên tốt nghiệp y khoa phải qua ít nhất một năm làm việc dưới sự hướng dẫn và giám thị của của một bác sĩ có thâm niên cao. Giai đoạn này được gọi là internship (thực tập), và thường xoay quanh các khoa cấp cứu, nội khoa tổng quát, và ngoại khoa. Sau khi hoàn tất chương trình internship, trên lí thuyết, bác sĩ có thể đăng kí với Hội đồng Y khoa (Medical Board) của bang, và có thể hành nghề độc lập. Nhưng trong thực tế thì hầu hết bác sĩ sau giai đoạn internship phải qua một giai đoạn huấn luyện nội trú (gọi là resident) thường kéo dài 2 năm (nhưng cũng có khi 3 năm) trước khi trở thành độc lập. Giai đoạn này có thể xem như là sau đại học, và cũng là thời gian mà bác sĩ quyết định nên theo đuổi sự nghiệp chuyên khoa hay hành nghề bác sĩ đa khoa. Ở Úc, đào tạo chuyên khoa thường do các trường college quản lí. Mỗi chuyên khoa có một college (không thuộc đại học). Ở Úc có hơn 10 college chuyên khoa. Thời gian huấn luyện để thành bác sĩ chuyên khoa rất khác nhau giữa các chuyên ngành, nhưng thường là 3-6 năm. Trong thời gian theo học chuyên khoa, bác sĩ có danh xưng là registrar. Sau khi đã hoàn tất chương trình huấn luyện chuyên khoa của các college, bác sĩ registrar được trao chức danh fellow, và bây giờ họ đã trở thành bác sĩ chuyên khoa (specialist). Bác sĩ chuyên khoa có thể hành nghề tư, hoặc trong bệnh viện với vai trò consultant (cố vấn). Do đó, tính từ lúc đào tạo cấp cử nhân đến lúc hành nghề độc lập như là một bác sĩ đa khoa, một cá nhân phải qua gần 9 năm học và huấn luyện. Để trở thành bác sĩ chuyên khoa, thời gian học và huấn luyện có thể dao động từ 12 đến 15 năm. Đó là một thời gian khá dài so với các ngành nghề khác, nhưng dĩ nhiên y khoa vì liên quan đến con người, nên không có sự nhân nhượng về chất lượng và thời gian đào tạo. Hiện nay, một số chuyên gia về giáo dục y khoa đang kêu gọi kéo dài thời gian đào tạo bác sĩ đa khoa để đáp ứng nhu cầu sức khoẻ trong thế kỉ 21. Bác sĩ đa khoa trong thế kỉ 21 không chỉ có kĩ năng tốt về lâm sàng, mà còn phải có kĩ năng quản lí các bệnh mãn tính và phòng bệnh từ cơ sở. 3.2 New Zealand Tại New Zealand, hầu hết các bác sĩ làm việc tại các bệnh viện và trung tâm y tế thường là một phần của một Tổ chức Y tế Tiểu học (PHO). Đây là những tài trợ ở một mức độ dân số, dựa trên các đặc điểm của dân số ghi danh của một thực tế (gọi tắt là kinh phí định suất cơ bản). Phí cho dịch vụ sắp xếp vẫn còn tồn tại với các nhà tài trợ khác như tai nạn bồi thường Corporation (ACC) và Bộ Phát triển Xã hội (MSD), cũng như nhận được đồng tiền từ bệnh nhân đầu-up kinh phí định suất dựa trên. Các bằng cấp y khoa cơ bản ở New Zealand là mức độ MBChB (Bachelor of Medicine, Cử nhân phẫu thuật), trong đó có truyền thống đã đạt được sau khi hoàn thành một khóa học năm hoặc sáu năm đại học. Ở NZ học viên mới tốt nghiệp phải hoàn thành việc GPEP (Chương trình giáo dục thực hành chung) Các giai đoạn I và II để được cấp học bổng danh hiệu bác sĩ đa khoa cao đẳng của Hoàng gia New Zealand (FRNZCGP), trong đó bao gồm việc đánh giá PRIMEX và tiếp tục CME và Peer nhóm học buổi theo chỉ dẫn của RNZCGP. Những người nắm giữ các giải thưởng của FRNZCGP có thể xin được công nhận chuyên gia với Hội đồng y tế New Zealand (MCNZ), sau đó họ được coi là chuyên gia chung trong Thực hành bởi Hội đồng và cộng đồng. Năm 2009, Chính phủ NZ tăng số lượng các địa điểm có sẵn trên các chương trình nhà nước tài trợ cho đào tạo GP. 4. CHÂU Á 4.1 Singapore Trường y Duke-NUS là sự hợp tác giữa ĐH Duke (Mỹ) và ĐH Quốc gia Singapore. Quy trình tuyển chọn sinh viên y khoa đầu vào của Duke-NUS cũng giống ở Mỹ, mọi sinh viên muốn vào học phải đạt một bằng cử nhân trước đó. Vì vậy, hầu hết độ tuổi sinh viên đầu vào là 24. Quá trình đào tạo bác sĩ ở Duke-NUS kéo dài bốn năm theo chương trình giảng dạy của Trường y Duke thuộc ĐH Duke. Điểm chuẩn kỳ thi MCAT để chọn đầu vào khá cao, tùy theo năm. Năm 2011 là 33 điểm. Ngoài điểm MCAT, các tiêu chuẩn khác để Trường Duke-NUS đánh giá chọn sinh viên là quá trình học tập trước đó, kinh nghiệm hoạt động vì cộng đồng, kinh nghiệm nghiên cứu, độ chín chắn về xã hội. 4.2 Nhật Bản Tại Nhật, đầu vào được chọn dựa vào điểm thi tốt nghiệp trung học và điểm thi đầu vào của trường ĐH mà trường y là một khoa. Thời gian đào tạo là sáu năm, bốn năm đầu học lý thuyết trong trường, hai năm cuối thực hành tại bệnh viện của chính trường ĐH đó. Hoàn thành sáu năm, sinh viên phải thi lấy giấy phép hành nghề bác sĩ, nếu đậu phải đăng ký hồ sơ tại Bộ Y tế trước khi hành nghề. 4.3 Trung Quốc (Gần VN nhất) Đại học Y Quảng Tây Thành lập từ năm 1934, Đại học Y Quảng Tây nằm tại thành phố Nam Ninh - thủ phủ của tỉnh Quảng Tây phía nam Trung Quốc. Trường chuyên đào tạo về Tây Y với sự hội nhập của giáo dục, nghiên cứu khoa học của các giáo sư y học trong nước và trên thế giới. Trường có tổng số 12031 sinh viên trong đó có 11767 sinh viên trung quốc và 264 sinh viên nước ngoài ỏ nhiều nước khác nhau trên thế giới đến theo học. Các sinh viên thường xuyên được thực hành trực tiếp tại 3 bệnh viện của trường (với tổng số trên 1500 giường bệnh) và một nhà máy chế biến thuốc. Trường có trung tâm kết nối mạng Internet miễn phí, kết nối mạng nhanh với toàn cầu, thư viện trường có 85000 đầu sách, có vườn nuôi súc vật thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đại học Y Khoa Quảng Tây còn là một trong những trường được Bộ Giáo Dục Trung Quốc cho phép cấp bằng cử nhân, thạc sỹ ở nhiều chuyên ngành cho học sinh quốc tế. Chương trình đào tạo Cử nhân (5 năm tiếng Trung, 6 năm với tiếng Anh): Bác sĩ đa khoa, Y học dự phòng, Cử nhân điều dưỡng, Bác sĩ Răng-Hàm-Mặt / 23.000- 30.000 RMB (nhân dân tệ)/năm. Cộng thêm phí quản lý, phí đăng ký,… 4.4 Ấn Độ và Bangladesh Các văn bằng y tế cơ bản ở Ấn Độ và Bangladesh là MBBS (Bachelor of Medicine, Cử nhân Surgery), BAMS (Bachelor of Ayurveda, Y khoa và phẫu thuật), BHMS (Cử nhân homoeopathic Y khoa và phẫu thuật) và Bums (Cử nhân Unani Y khoa và phẫu thuật). Các văn bằng này thường bao gồm một khóa học bốn năm rưỡi sau một năm thực tập bắt buộc ở Ấn Độ. Ở Bangladesh nó là năm năm sau một năm thực tập bắt buộc. Việc đăng ký của các bác sĩ thường được quản lý bởi Hội đồng y tế nhà nước. Họ được cấp chứng chỉ sau khi hoàn thành thỏa đáng của các qui định thực tập bắt buộc. Liên hiệp các Hội Bác sĩ gia đình của Ấn Độ (FFPAI) là một tổ chức trong đó có một kết nối với hơn 8000 bác sĩ đa khoa thông qua việc có là thành viên trực thuộc. 4.5 Pakistan Ở Pakistan, là 5 năm MBBS được tiếp theo sau bởi một năm thực tập các chuyên ngành khác nhau. Hội đồng Y tế và Nha khoa Pakistan (PMDC) sau đó trao đăng ký hành nghề, tiếp đó các ứng cử viên có thể chọn để thực hành như là một lựa chọn cho bác sĩ hoặc chuyên môn đào tạo. Các chương trình Đào tạo Family Medicine đầu tiên đã được phê duyệt bởi các trường đại học Y của Pakistan (CPSP) vào năm 1992 và bắt đầu vào năm 1993 bởi các Trung tâm bác sĩ gia đình của Sở Khoa học Y tế cộng đồng, Đại học Aga Khan, Pakistan. 4.6 Thái lan (Bổ sung sau) 4.7 Hàn Quốc (Bổ sung sau) 4.8 Đài Loan (Bổ sung sau) 4.9 Lào & Campuchia Đại học KHSK Lào (Bổ sung sau) Đại học KHSK Campuchia (Bổ sung sau) (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng 1. Quy chế này quy định đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, bao gồm: tổ chức đào tạo; kiểm tra và thi học phần; xét và công nhận tốt nghiệp. 2. Quy chế này áp dụng đối với sinh viên các khoá đào tạo hệ chính quy ở trình độ đại học và cao đẳng trong các đại học, học viện, trường đại học và trường cao đẳng (sau đây gọi tắt là trường) thực hiện theo hình thức tích luỹ tín chỉ. Điều 2. Chương trình giáo dục đại học 1. Chương trình giáo dục đại học (sau đây gọi tắt là chương trình) thể hiện mục tiêu giáo dục đại học, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi học phần, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học. 2. Chương trình được các trường xây dựng trên cơ sở chương trình khung do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Mỗi chương trình gắn với một ngành (kiểu đơn ngành) hoặc với một vài ngành (kiểu song ngành; kiểu ngành chính - ngành phụ; kiểu 2 văn bằng). 3. Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Điều 3. Học phần và Tín chỉ 1. Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và được kết cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học. Từng học phần phải được ký hiệu bằng một mã số riêng do trường quy định. 2. Có hai loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn. a) Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy; b) Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tuỳ ý để tích luỹ đủ số học phần quy định cho mỗi chương trình. 3. Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Hiệu trưởng các trường quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần cho phù hợp với đặc điểm của trường. 4. Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính theo đơn vị học trình, thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ. 5. Một tiết học được tính bằng 50 phút. Điều 4. Thời gian hoạt động giảng dạy Thời gian hoạt động giảng dạy của trường được tính từ 8 giờ đến 20 giờ hằng ngày. Tuỳ theo tình hình thực tế của trường, Hiệu trưởng quy định cụ thể thời gian hoạt động giảng dạy của trường. Tuỳ theo số lượng sinh viên, số lớp học cần tổ chức và điều kiện cơ sở vật chất của trường, trưởng phòng đào tạo sắp xếp thời khóa biểu hàng ngày cho các lớp. Điều 5. Đánh giá kết quả học tập Kết quả học tập của sinh viên được đánh giá sau từng học kỳ qua các tiêu chí sau: 1. Số tín chỉ của các học phần mà sinh viên đăng ký học vào đầu mỗi học kỳ (gọi tắt là khối lượng học tập đăng ký). 2. Điểm trung bình chung học kỳ là điểm trung bình có trọng số của các học phần mà sinh viên đăng ký học trong học kỳ đó, với trọng số là số tín chỉ tương ứng của từng học phần. 3. Khối lượng kiến thức tích lũy là khối lượng tính bằng tổng số tín chỉ của những học phần đã được đánh giá theo thang điểm chữ A, B, C, D tính từ đầu khóa học. 4. Điểm trung bình chung tích lũy là điểm trung bình của các học phần và được đánh giá bằng các điểm chữ A, B, C, D mà sinh viên đã tích lũy được, tính từ đầu khóa học cho tới thời điểm được xem xét vào lúc kết thúc mỗi học kỳ. Chương II TỔ CHỨC ĐÀO TẠO Điều 6. Thời gian và kế hoạch đào tạo 1. Các trường tổ chức đào tạo theo khoá học, năm học và học kỳ. a) Khoá học là thời gian thiết kế để sinh viên hoàn thành một chương trình cụ thể. Tuỳ thuộc chương trình, khoá học được quy định như sau: - Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng ngành đào tạo; - Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng ngành đào tạo; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng ngành đào tạo. b) Một năm học có hai học kỳ chính, mỗi học kỳ chính có ít nhất 15 tuần thực học và 3 tuần thi. Ngoài hai học kỳ chính, Hiệu trưởng xem xét quyết định tổ chức thêm một kỳ học phụ để sinh viên có điều kiện được học lại; học bù hoặc học vượt. Mỗi học kỳ phụ có ít nhất 5 tuần thực học và 1 tuần thi. 2. Căn cứ vào khối lượng và nội dung kiến thức tối thiểu quy định cho các chương trình, Hiệu trưởng dự kiến phân bổ số học phần cho từng năm học, từng học kỳ. 3. Thời gian tối đa hoàn thành chương trình bao gồm: thời gian thiết kế cho chương trình quy định tại khoản 1 của Điều này, cộng với 2 học kỳ đối với các khoá học dưới 3 năm; 4 học kỳ đối với các khoá học từ 3 đến dưới 5 năm; 6 học kỳ đối với các khoá học từ 5 đến 6 năm. Tùy theo điều kiện đào tạo của nhà trường, Hiệu trưởng quy định thời gian tối đa cho mỗi chương trình, nhưng không được vượt quá hai lần so với thời gian thiết kế cho chương trình đó. Các đối tượng được hưởng chính sách ưu tiên theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy không bị hạn chế về thời gian tối đa để hoàn thành chương trình. Điều 7. Đăng ký nhập học 1. Khi đăng ký vào học hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ tại trường đại học, trường cao đẳng, ngoài các giấy tờ phải nộp theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy hiện hành, sinh viên phải nộp cho phòng đào tạo đơn xin học theo hệ thống tín chỉ theo mẫu do trường quy định. Tất cả giấy tờ khi sinh viên nhập học phải được xếp vào túi hồ sơ của từng cá nhân do phòng đào tạo của trường quản lý. 2. Sau khi xem xét thấy đủ điều kiện nhập học, phòng đào tạo trình Hiệu trưởng ký quyết định công nhận người đến học là sinh viên chính thức của trường và cấp cho họ: a) Thẻ sinh viên; b) Sổ đăng ký học tập; c) Phiếu nhận cố vấn học tập. 3. Mọi thủ tục đăng ký nhập học phải được hoàn thành trong thời hạn theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy hiện hành. 4. Sinh viên nhập học phải được trường cung cấp đầy đủ các thông tin về mục tiêu, nội dung và kế hoạch học tập của các chương trình, quy chế đào tạo, nghĩa vụ và quyền lợi của sinh viên. Điều 8. Sắp xếp sinh viên vào học các chương trình hoặc ngành đào tạo 1. Đối với những trường xác định điểm trúng tuyển theo chương trình (hoặc theo ngành đào tạo) trong kỳ thi tuyển sinh, thì những thí sinh đạt yêu cầu xét tuyển được trường sắp xếp vào học các chương trình (hoặc ngành đào tạo) đã đăng ký. 2. Đối với những trường xác định điểm trúng tuyển theo nhóm chương trình (hoặc theo nhóm ngành đào tạo) trong kỳ thi tuyển sinh, đầu khoá học trường công bố công khai chỉ tiêu đào tạo cho từng chương trình (hoặc từng ngành đào tạo). Căn cứ vào đăng ký chọn chương trình (hoặc ngành đào tạo), điểm thi tuyển sinh và kết quả học tập, trường sắp xếp sinh viên vào các chương trình (hoặc ngành đào tạo). Mỗi sinh viên được đăng ký một số nguyện vọng chọn chương trình (hoặc ngành đào tạo) theo thứ tự ưu tiên. Hiệu trưởng quy định số lượng và tiêu chí cụ thể đối với từng chương trình (hoặc ngành đào tạo) để sinh viên đăng ký. Điều 9. Tổ chức lớp học Lớp học được tổ chức theo từng học phần dựa vào đăng ký khối lượng học tập của sinh viên ở từng học kỳ. Hiệu trưởng quy định số lượng sinh viên tối thiểu cho mỗi lớp học tùy theo từng loại học phần được giảng dạy trong trường. Nếu số lượng sinh viên đăng ký thấp hơn số lượng tối thiểu quy định thì lớp học sẽ không được tổ chức và sinh viên phải đăng ký chuyển sang học những học phần khác có lớp, nếu chưa đảm bảo đủ quy định về khối lượng học tập tối thiểu cho mỗi học kỳ. Điều 10. Đăng ký khối lượng học tập 1. Đầu mỗi năm học, trường phải thông báo lịch trình học dự kiến cho từng chương trình trong từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự chọn dự kiến sẽ dạy, đề cương chi tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho từng học phần, lịch kiểm tra và thi, hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần. 2. Trước khi bắt đầu mỗi học kỳ, tùy theo khả năng và điều kiện học tập của bản thân, từng sinh viên phải đăng ký học các học phần dự định sẽ học trong học kỳ đó với phòng đào tạo của trường. Có 3 hình thức đăng ký các học phần sẽ học trong mỗi học kỳ: đăng ký sớm, đăng ký bình thường và đăng ký muộn. a) Đăng ký sớm là hình thức đăng ký được thực hiện trước thời điểm bắt đầu học kỳ 2 tháng; b) Đăng ký bình thường là hình thức đăng ký được thực hiện trước thời điểm bắt đầu học kỳ 2 tuần; c) Đăng ký muộn là hình thức đăng ký được thực hiện trong 2 tuần đầu của học kỳ chính hoặc trong tuần đầu của học kỳ phụ cho những sinh viên muốn đăng ký học thêm hoặc đăng ký học đổi sang học phần khác khi không có lớp. Tuỳ điều kiện đào tạo của từng trường, Hiệu trưởng xem xét, quyết định các hình thức đăng ký thích hợp. 3. Khối lượng học tập tối thiểu mà mỗi sinh viên phải đăng ký trong mỗi học kỳ được quy định như sau: a) 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những sinh viên được xếp hạng học lực bình thường; b) 10 tín chỉ cho mỗi học kỳ, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những sinh viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu. c) Không quy định khối lượng học tập tối thiểu đối với sinh viên ở học kỳ phụ. 4. Sinh viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu chỉ được đăng ký khối lượng học tập không quá 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ. Không hạn chế khối lượng đăng ký học tập của những sinh viên xếp hạng học lực bình thường. 5. Việc đăng ký các học phần sẽ học cho từng học kỳ phải bảo đảm điều kiện tiên quyết của từng học phần và trình tự học tập của mỗi chương trình cụ thể. 6. Phòng đào tạo của trường chỉ nhận đăng ký khối lượng học tập của sinh viên ở mỗi học kỳ khi đã có chữ ký chấp thuận của cố vấn học tập trong sổ đăng ký học tập hoặc theo quy định của Hiệu trưởng. Khối lượng đăng ký học tập của sinh viên theo từng học kỳ phải được ghi vào phiếu đăng ký học do phòng đào tạo của trường lưu giữ. Điều 11. Rút bớt học phần đã đăng ký 1. Việc rút bớt học phần trong khối lượng học tập đã đăng ký chỉ được chấp nhận sau 6 tuần kể từ đầu học kỳ chính, nhưng không muộn quá 8 tuần; sau 2 tuần kể từ đầu học kỳ phụ, nhưng không muộn quá 4 tuần. Ngoài thời hạn trên học phần vẫn được giữ nguyên trong phiếu đăng ký học và nếu sinh viên không đi học sẽ được xem như tự ý bỏ học và phải nhận điểm F. 2. Điều kiện rút bớt các học phần đã đăng ký: a) Sinh viên phải tự viết đơn gửi phòng đào tạo của trường; b) Được cố vấn học tập chấp thuận hoặc theo quy định của Hiệu trưởng; c) Không vi phạm khoản 2 Điều 10 của Quy chế này. Sinh viên chỉ được phép bỏ lớp đối với học phần xin rút bớt, sau khi giảng viên phụ trách nhận giấy báo của phòng đào tạo. Điều 12. Đăng ký học lại 1. Sinh viên có học phần bắt buộc bị điểm F phải đăng ký học lại học phần đó ở một trong các học kỳ tiếp theo cho đến khi đạt điểm A, B, C hoặc D. 2. Sinh viên có học phần tự chọn bị điểm F phải đăng ký học lại học phần đó hoặc học đổi sang học phần tự chọn tương đương khác. 3. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều này, sinh viên được quyền đăng ký học lại hoặc học đổi sang học phần khác đối với các học phần bị điểm D để cải thiện điểm trung bình chung tích lũy. Điều 13. Nghỉ ốm Sinh viên xin nghỉ ốm trong quá trình học hoặc trong đợt thi, phải viết đơn xin phép gửi trưởng khoa trong vòng một tuần kể từ ngày ốm, kèm theo giấy chứng nhận của cơ quan y tế trường, hoặc y tế địa phương hoặc của bệnh viện. Điều 14. Xếp hạng năm đào tạo và học lực 1. Sau mỗi học kỳ, căn cứ vào khối lượng kiến thức tích lũy, sinh viên được xếp hạng năm đào tạo như sau: a) Sinh viên năm thứ nhất: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy dưới 30 tín chỉ; b) Sinh viên năm thứ hai: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy từ 30 tín chỉ đến dưới 60 tín chỉ; c) Sinh viên năm thứ ba: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy từ 60 tín chỉ đến dưới 90 tín chỉ; d) Sinh viên năm thứ tư: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy từ 90 tín chỉ đến dưới 120 tín chỉ; đ) Sinh viên năm thứ năm: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy từ 120 tín chỉ đến dưới 150 tín chỉ; e) Sinh viên năm thứ sáu: Nếu khối lượng kiến thức tích lũy từ 150 tín chỉ trở lên. 2. Sau mỗi học kỳ, căn cứ vào điểm trung bình chung tích luỹ, sinh viên được xếp hạng về học lực như sau: a) Hạng bình thường: Nếu điểm trung bình chung tích lũy đạt từ 2,00 trở lên. b) Hạng yếu: Nếu điểm trung bình chung tích lũy đạt dưới 2,00, nhưng chưa rơi vào trường hợp bị buộc thôi học. 3. Kết quả học tập trong học kỳ phụ được gộp vào kết quả học tập trong học kỳ chính ngay trước học kỳ phụ để xếp hạng sinh viên về học lực. Điều 15. Nghỉ học tạm thời 1. Sinh viên được quyền viết đơn gửi Hiệu trưởng xin nghỉ học tạm thời và bảo lưu kết quả đã học trong các trường hợp sau: a) Được điều động vào các lực lượng vũ trang; b) Bị ốm hoặc tai nạn phải điều trị thời gian dài, nhưng phải có giấy xác nhận của cơ quan y tế; c) Vì nhu cầu cá nhân. Trường hợp này, sinh viên phải học ít nhất một học kỳ ở trường, không rơi vào các trường hợp bị buộc thôi học quy định tại Điều 16 của Quy chế này và phải đạt điểm trung bình chung tích lũy không dưới 2,00. Thời gian nghỉ học tạm thời vì nhu cầu cá nhân phải được tính vào thời gian học chính thức quy định tại khoản 3 Điều 6 của Quy chế này. 2. Sinh viên nghỉ học tạm thời, khi muốn trở lại học tiếp tại trường, phải viết đơn gửi Hiệu trưởng ít nhất một tuần trước khi bắt đầu học kỳ mới . Điều 16. Bị buộc thôi học 1. Sau mỗi học kỳ, sinh viên bị buộc thôi học nếu rơi vào một trong các trường hợp sau: a) Có điểm trung bình chung học kỳ đạt dưới 0,80 đối với học kỳ đầu của khóa học; đạt dưới 1,00 đối với các học kỳ tiếp theo hoặc đạt dưới 1,10 đối với 2 học kỳ liên tiếp; b) Có điểm trung bình chung tích lũy đạt dưới 1,20 đối với sinh viên năm thứ nhất; dưới 1,40 đối với sinh viên năm thứ hai; dưới 1,60 đối với sinh viên năm thứ ba hoặc dưới 1,80 đối với sinh viên các năm tiếp theo và cuối khoá; c) Vượt quá thời gian tối đa được phép học tại trường quy định tại khoản 3 Điều 6 của Quy chế này; d) Bị kỷ luật lần thứ hai vì lý do đi thi hộ hoặc nhờ người thi hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 29 của Quy chế này hoặc bị kỷ luật ở mức xoá tên khỏi danh sách sinh viên của trường. 2. Chậm nhất là một tháng sau khi sinh viên có quyết định buộc thôi học, trường phải thông báo trả về địa phương nơi sinh viên có hộ khẩu thường trú. Trường hợp tại trường sinh viên đã học hoặc tại những trường khác có các chương trình đào tạo ở trình độ thấp hơn hoặc chương trình giáo dục thường xuyên tương ứng, thì những sinh viên thuộc diện bị buộc thôi học quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 của Điều này, được quyền xin xét chuyển qua các chương trình đó và được bảo lưu một phần kết quả học tập ở chương trình cũ khi học ở các chương trình mới này. Hiệu trưởng xem xét quyết định cho bảo lưu kết quả học tập đối với từng trường hợp cụ thể. Điều 17. Học cùng lúc hai chương trình 1. Sinh viên học cùng lúc hai chương trình là sinh viên có nhu cầu đăng ký học thêm một chương trình thứ hai để khi tốt nghiệp được cấp hai văn bằng. 2. Điều kiện để học cùng lúc hai chương trình: a) Ngành đào tạo chính ở chương trình thứ hai phải khác ngành đào tạo chính ở chương trình thứ nhất; b) Sau khi đã kết thúc học kỳ thứ nhất năm học đầu tiên của chương trình thứ nhất; c) Sinh viên không thuộc diện xếp hạng học lực yếu ở chương trình thứ nhất; 3. Sinh viên đang học thêm chương trình thứ hai, nếu rơi vào diện bị xếp hạng học lực yếu của chương trình thứ hai, phải dừng học thêm chương trình thứ hai ở học kỳ tiếp theo. 4. Thời gian tối đa được phép học đối với sinh viên học cùng lúc hai chương trình là thời gian tối đa quy định cho chương trình thứ nhất, quy định tại khoản 3 Điều 6 của Quy chế này. Khi học chương trình thứ hai, sinh viên được bảo lưu điểm của những học phần có nội dung và khối lượng kiến thức tương đương có trong chương trình thứ nhất. 5. Sinh viên chỉ được xét tốt nghiệp chương trình thứ hai, nếu có đủ điều kiện tốt nghiệp ở chương trình thứ nhất. Điều 18. Chuyển trường 1. Sinh viên được xét chuyển trường nếu có các điều kiện sau đây: a) Trong thời gian học tập, nếu gia đình chuyển nơi cư trú hoặc sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, cần thiết phải chuyển đến trường gần nơi cư trú của gia đình để thuận lợi trong học tập; b) Xin chuyển đến trường có cùng ngành hoặc thuộc cùng nhóm ngành với ngành đào tạo mà sinh viên đang học; c) Được sự đồng ý của Hiệu trưởng trường xin chuyển đi và trường xin chuyển đến; d) Không thuộc một trong các trường hợp không được phép chuyển trường quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Sinh viên không được phép chuyển trường trong các trường hợp sau: a) Sinh viên đã tham dự kỳ thi tuyển sinh theo đề thi chung, nhưng không trúng tuyển vào trường hoặc có kết quả thi thấp hơn điểm trúng tuyển của trường xin chuyển đến; b) Sinh viên thuộc diện nằm ngoài vùng tuyển quy định của trường xin chuyển đến; c) Sinh viên năm thứ nhất và năm cuối khóa; d) Sinh viên đang trong thời gian bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên. 3. Thủ tục chuyển trường: a) Sinh viên xin chuyển trường phải làm hồ sơ xin chuyển trường theo quy định của nhà trường; b) Hiệu trưởng trường có sinh viên xin chuyển đến quyết định tiếp nhận hoặc không tiếp nhận; quyết định việc học tập tiếp tục của sinh viên, công nhận các học phần mà sinh viên chuyển đến được chuyển đổi kết quả và số học phần phải học bổ sung, trên cơ sở so sánh chương trình ở trường sinh viên xin chuyển đi và trường xin chuyển đến. Chương III KIỂM TRA VÀ THI HỌC PHẦN Điều 19. Đánh giá học phần 1. Đối với các học phần chỉ có lý thuyết hoặc có cả lý thuyết và thực hành: Tùy theo tính chất của học phần, điểm tổng hợp đánh giá học phần (sau đây gọi tắt là điểm học phần) được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh giá bộ phận, bao gồm: điểm kiểm tra thường xuyên trong qúa trình học tập; điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận; điểm đánh giá phần thực hành; điểm chuyên cần; điểm thi giữa học phần; điểm tiểu luận và điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường hợp và có trọng số không dưới 50%. Việc lựa chọn các hình thức đánh giá bộ phận và trọng số của các điểm đánh giá bộ phận, cũng như cách tính điểm tổng hợp đánh giá học phần do giảng viên đề xuất, được Hiệu trưởng phê duyệt và phải được quy định trong đề cương chi tiết của học phần. 2. Đối với các học phần thực hành: Sinh viên phải tham dự đầy đủ các bài thực hành. Điểm trung bình cộng của điểm các bài thực hành trong học kỳ được làm tròn đến một chữ số thập phân là điểm của học phần thực hành. 3. Giảng viên phụ trách học phần trực tiếp ra đề thi, đề kiểm tra và cho điểm đánh giá bộ phận, trừ bài thi kết thúc học phần. Điều 20. Tổ chức kỳ thi kết thúc học phần 1. Cuối mỗi học kỳ, trường tổ chức một kỳ thi chính và nếu có điều kiện, tổ chức thêm một kỳ thi phụ để thi kết thúc học phần. Kỳ thi phụ dành cho những sinh viên không tham dự kỳ thi chính hoặc có học phần bị điểm F ở kỳ thi chính và được tổ chức sớm nhất là hai tuần sau kỳ thi chính. 2. Thời gian dành cho ôn thi mỗi học phần tỷ lệ thuận với số tín chỉ của học phần đó, ít nhất là 2/3 ngày cho một tín chỉ. Hiệu trưởng quy định cụ thể thời gian dành cho ôn thi và thời gian thi cho các kỳ thi. Điều 21. Ra đề thi, hình thức thi, chấm thi và số lần được dự thi kết thúc học phần 1. Đề thi kết thúc học phần phải phù hợp với nội dung học phần đã quy định trong chương trình. Việc ra đề thi hoặc lấy từ ngân hàng đề thi được thực hiện theo quy định của Hiệu trưởng. 2. Hình thức thi kết thúc học phần có thể là thi viết (trắc nghiệm hoặc tự luận), vấn đáp, viết tiểu luận, làm bài tập lớn, hoặc kết hợp giữa các hình thức trên. Hiệu trưởng duyệt các hình thức thi thích hợp cho từng học phần. 3. Việc chấm thi kết thúc các học phần chỉ có lý thuyết và việc chấm tiểu luận, bài tập lớn phải do hai giảng viên đảm nhiệm. Hiệu trưởng quy định việc bảo quản các bài thi, quy trình chấm thi và lưu giữ các bài thi sau khi chấm. Thời gian lưu giữ các bài thi viết, tiểu luận, bài tập lớn ít nhất là hai năm, kể từ ngày thi hoặc ngày nộp tiểu luận, bài tập lớn. 4. Thi vấn đáp kết thúc học phần phải do hai giảng viên thực hiện. Điểm thi vấn đáp được công bố công khai sau mỗi buổi thi. Trong trường hợp hai giảng viên chấm thi không thống nhất được điểm chấm thì các giảng viên chấm thi trình trưởng bộ môn hoặc trưởng khoa quyết định. Các điểm thi kết thúc học phần và điểm học phần phải ghi vào bảng điểm theo mẫu thống nhất của trường, có chữ ký của cả hai giảng viên chấm thi và làm thành ba bản. Một bản lưu tại bộ môn, một bản gửi về văn phòng khoa và một bản gửi về phòng đào tạo của trường, chậm nhất một tuần sau khi kết thúc chấm thi học phần. 5. Sinh viên vắng mặt trong kỳ thi kết thúc học phần, nếu không có lý do chính đáng coi như đã dự thi một lần và phải nhận điểm 0 ở kỳ thi chính. Những sinh viên này khi được trưởng khoa cho phép được dự thi một lần ở kỳ thi phụ ngay sau đó (nếu có). 6. Sinh viên vắng mặt có lý do chính đáng ở kỳ thi chính, nếu được trưởng khoa cho phép, được dự thi ở kỳ thi phụ ngay sau đó (nếu có), điểm thi kết thúc học phần được coi là điểm thi lần đầu. Trường hợp không có kỳ thi phụ hoặc thi không đạt trong kỳ thi phụ những sinh viên này sẽ phải dự thi tại các kỳ thi kết thúc học phần ở các học kỳ sau hoặc học kỳ phụ. Điều 22. Cách tính điểm đánh giá bộ phận, điểm học phần 1. Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân. 2. Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập phân, sau đó được chuyển thành điểm chữ như sau: a) Loại đạt: A (8,5 - 10) Giỏi B (7,0 - 8,4) Khá C (5,5 - 6,9) Trung bình D (4,0 - 5,4) Trung bình yếu b) Loại không đạt: F (dưới 4,0) Kém c) Đối với những học phần chưa đủ cơ sở để đưa vào tính điểm trung bình chung học kỳ, khi xếp mức đánh giá được sử dụng các kí hiệu sau: I Chưa đủ dữ liệu đánh giá. X Chưa nhận được kết quả thi. d) Đối với những học phần được nhà trường cho phép chuyển điểm, khi xếp mức đánh giá được sử dụng kí hiệu R viết kèm với kết quả. 3. Việc xếp loại các mức điểm A, B, C, D, F được áp dụng cho các trường hợp sau đây: a) Đối với những học phần mà sinh viên đã có đủ điểm đánh giá bộ phận, kể cả trường hợp bỏ học, bỏ kiểm tra hoặc bỏ thi không có lý do phải nhận điểm 0; b) Chuyển đổi từ mức điểm I qua, sau khi đã có các kết quả đánh giá bộ phận mà trước đó sinh viên được giảng viên cho phép nợ; c) Chuyển đổi từ các trường hợp X qua. 4. Việc xếp loại ở mức điểm F ngoài những trường hợp như đã nêu ở khoản 3 Điều này, còn áp dụng cho trường hợp sinh viên vi phạm nội quy thi, có quyết định phải nhận mức điểm F. 5. Việc xếp loại theo mức điểm I được áp dụng cho các trường hợp sau đây: a) Trong thời gian học hoặc trong thời gian thi kết thúc học kỳ, sinh viên bị ốm hoặc tai nạn không thể dự kiểm tra hoặc thi, nhưng phải được trưởng khoa cho phép; b) Sinh viên không thể dự kiểm tra bộ phận hoặc thi vì những lý do khách quan, được trưởng khoa chấp thuận. Trừ các trường hợp đặc biệt do Hiệu trưởng quy định, trước khi bắt đầu học kỳ mới kế tiếp, sinh viên nhận mức điểm I phải trả xong các nội dung kiểm tra bộ phận còn nợ để được chuyển điểm. Trường hợp sinh viên chưa trả nợ và chưa chuyển điểm nhưng không rơi vào trường hợp bị buộc thôi học thì vẫn được học tiếp ở các học kỳ kế tiếp. 6. Việc xếp loại theo mức điểm X được áp dụng đối với những học phần mà phòng đào tạo của trường chưa nhận được báo cáo kết quả học tập của sinh viên từ khoa chuyển lên. 7. Ký hiệu R được áp dụng cho các trường hợp sau: a) Điểm học phần được đánh giá ở các mức điểm A, B, C, D trong đợt đánh giá đầu học kỳ (nếu có) đối với một số học phần được phép thi sớm để giúp sinh viên học vượt. b) Những học phần được công nhận kết quả, khi sinh viên chuyển từ trường khác đến hoặc chuyển đổi giữa các chương trình. Điều 23. Cách tính điểm trung bình chung 1. Để tính điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy, mức điểm chữ của mỗi học phần phải được quy đổi qua điểm số như sau: A tương ứng với 4 B tương ứng với 3 C tương ứng với 2 D tương ứng với 1 F tương ứng với 0 Trường hợp sử dụng thang điểm chữ có nhiều mức, Hiệu trưởng quy định quy đổi các mức điểm chữ đó qua các điểm số thích hợp, với một chữ số thập phân. 2. Điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy được tính theo công thức sau và được làm tròn đến 2 chữ số thập phân: Trong đó: A là điểm trung bình chung học kỳ hoặc điểm trung bình chung tích lũy ai là điểm của học phần thứ i ni là số tín chỉ của học phần thứ i n là tổng số học phần. Điểm trung bình chung học kỳ để xét học bổng, khen thưởng sau mỗi học kỳ chỉ tính theo kết quả thi kết thúc học phần ở lần thi thứ nhất. Điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy để xét thôi học, xếp hạng học lực sinh viên và xếp hạng tốt nghiệp được tính theo điểm thi kết thúc học phần cao nhất trong các lần thi. Chương IV XÉT VÀ CÔNG NHẬN TỐT NGHIỆP Điều 24. Thực tập cuối khóa, làm đồ án hoặc khoá luận tốt nghiệp 1. Đầu học kỳ cuối khoá, các sinh viên được đăng ký làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp hoặc học thêm một số học phần chuyên môn được quy định như sau: a) Làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp: áp dụng cho sinh viên đạt mức quy định của trường. Đồ án, khoá luận tốt nghiệp là học phần có khối lượng không quá 14 tín chỉ cho trình độ đại học và 5 tín chỉ cho trình độ cao đẳng. Hiệu trưởng quy định khối lượng cụ thể phù hợp với yêu cầu đào tạo của trường. b) Học và thi một số học phần chuyên môn: sinh viên không được giao làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp phải đăng ký học thêm một số học phần chuyên môn, nếu chưa tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho chương trình. 2. Tùy theo điều kiện của trường và đặc thù của từng ngành đào tạo, Hiệu trưởng quy định: a) Các điều kiện để sinh viên được đăng ký làm đồ án hoặc khoá luận tốt nghiệp; b) Hình thức và thời gian làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp; c) Hình thức chấm đồ án, khoá luận tốt nghiệp; d) Nhiệm vụ của giảng viên hướng dẫn; trách nhiệm của bộ môn và khoa đối với sinh viên trong thời gian làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp. 3. Đối với một số ngành đào tạo đòi hỏi phải dành nhiều thời gian cho thí nghiệm hoặc khảo sát để sinh viên hoàn thành đồ án, khoá luận tốt nghiệp, trường có thể bố trí thời gian làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp kết hợp với thời gian thực tập chuyên môn cuối khoá. Điều 25. Chấm đồ án, khoá luận tốt nghiệp 1. Hiệu trưởng quyết định danh sách giảng viên chấm đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Việc chấm mỗi đồ án, khóa luận tốt nghiệp phải do 2 giảng viên đảm nhiệm. 2. Điểm của đồ án, khoá luận tốt nghiệp được chấm theo thang điểm chữ theo quy định tại các mục a và b, khoản 2, Điều 22 của Quy chế này. Kết quả chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp được công bố chậm nhất là 3 tuần, kể từ ngày nộp đồ án, khóa luận tốt nghiệp. Điểm đồ án, khoá luận tốt nghiệp được tính vào điểm trung bình chung tích lũy của toàn khoá học. 3. Sinh viên có đồ án, khoá luận tốt nghiệp bị điểm F, phải đăng ký làm lại đồ án, khóa luận tốt nghiệp; hoặc phải đăng ký học thêm một số học phần chuyên môn để thay thế, sao cho tổng số tín chỉ của các học phần chuyên môn học thêm tương đương với số tín chỉ của đồ án, khóa luận tốt nghiệp. Điều 26. Thực tập cuối khoá và điều kiện xét tốt nghiệp của một số ngành đào tạo đặc thù Đối với một số ngành đào tạo đặc thù thuộc các lĩnh vực Nghệ thuật, Kiến trúc, Y tế, Thể dục - Thể thao, Hiệu trưởng quy định nội dung, hình thức thực tập cuối khoá; hình thức chấm đồ án, khoá luận tốt nghiệp; điều kiện xét và công nhận tốt nghiệp phù hợp với đặc điểm các chương trình của trường. Điều 27. Điều kiện xét tốt nghiệp và công nhận tốt nghiệp 1. Những sinh viên có đủ các điều kiện sau thì được trường xét và công nhận tốt nghiệp: a) Cho đến thời điểm xét tốt nghiệp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không đang trong thời gian bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập; b) Tích lũy đủ số học phần quy định cho chương trình đào tạo: với khối lượng không dưới 180 tín chỉ đối với khoá đại học 6 năm; 150 tín chỉ đối với khoá đại học 5 năm; 120 tín chỉ đối với khoá đại học 4 năm; 90 tín chỉ đối với khoá cao đẳng 3 năm; 60 tín chỉ đối với khoá cao đẳng 2 năm. Hiệu trưởng quy định cụ thể khối lượng kiến thức tối thiểu cho từng chương trình được triển khai đào tạo trong phạm vi trường mình; c) Điểm trung bình chung tích lũy của toàn khóa học đạt từ 2,00 trở lên; d) Thỏa mãn một số yêu cầu về kết quả học tập đối với nhóm học phần thuộc ngành đào tạo chính do Hiệu trưởng quy định; đ) Có chứng chỉ giáo dục quốc phòng và giáo dục thể chất đối với các ngành đào tạo không chuyên về quân sự và thể dục - thể thao. 2. Sau mỗi học kỳ, Hội đồng xét tốt nghiệp căn cứ các điều kiện công nhận tốt nghiệp quy định tại khoản 1 Điều này để lập danh sách những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp. Hội đồng xét tốt nghiệp trường do Hiệu trưởng hoặc Phó Hiệu trưởng được Hiệu trưởng uỷ quyền làm Chủ tịch, trưởng phòng đào tạo làm Thư ký và các thành viên là các trưởng khoa chuyên môn, trưởng phòng công tác sinh viên. 3. Căn cứ đề nghị của Hội đồng xét tốt nghiệp, Hiệu trưởng ký quyết định công nhận tốt nghiệp cho những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp. Điều 28. Cấp bằng tốt nghiệp, bảo lưu kết quả học tập, chuyển chương trình đào tạo và chuyển loại hình đào tạo 1. Bằng tốt nghiệp đại học, cao đẳng được cấp theo ngành đào tạo chính (đơn ngành hoặc song ngành). Hạng tốt nghiệp được xác định theo điểm trung bình chung tích lũy của toàn khoá học, như sau: a) Loại xuất sắc: Điểm trung bình chung tích lũy từ 3,60 đến 4,00; b) Loại giỏi: Điểm trung bình chung tích lũy từ 3,20 đến 3,59; c) Loại khá: Điểm trung bình chung tích lũy từ 2,50 đến 3,19; d) Loại trung bình: Điểm trung bình chung tích lũy từ 2,00 đến 2,49. 2. Hạng tốt nghiệp của những sinh viên có kết quả học tập toàn khoá loại xuất sắc và giỏi sẽ bị giảm đi một mức, nếu rơi vào một trong các trường hợp sau: a) Có khối lượng của các học phần phải thi lại vượt quá 5% so với tổng số tín chỉ quy định cho toàn chương trình; b) Đã bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên trong thời gian học. 3. Kết quả học tập của sinh viên phải được ghi vào bảng điểm theo từng học phần. Trong bảng điểm còn phải ghi chuyên ngành (hướng chuyên sâu) hoặc ngành phụ (nếu có). 4. Nếu kết quả học tập của sinh viên thỏa mãn những quy định tại khoản 1 Điều 27 của Quy chế này đối với một số chương trình đào tạo tương ứng với các ngành đào tạo khác nhau, thì sinh viên được cấp các bằng tốt nghiệp khác nhau tương ứng với các ngành đào tạo đó. 5. Sinh viên còn nợ chứng chỉ giáo dục quốc phòng và giáo dục thể chất, nhưng đã hết thời gian tối đa được phép học, trong thời hạn 5 năm tính từ ngày phải ngừng học, được trở về trường trả nợ để có đủ điều kiện xét tốt nghiệp. 6. Sinh viên không tốt nghiệp được cấp giấy chứng nhận về các học phần đã học trong chương trình của trường. Những sinh viên này nếu có nguyện vọng, được quyền làm đơn xin chuyển qua các chương trình khác theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Quy chế này. Chương V XỬ LÝ VI PHẠM Điều 29. Xử lý kỷ luật đối với sinh viên vi phạm các quy định về thi, kiểm tra 1. Trong khi dự kiểm tra thường xuyên, chuẩn bị tiểu luận, bài tập lớn, thi giữa học phần, thi kết thúc học phần, chuẩn bị đồ án, khoá luận tốt nghiệp, nếu vi phạm quy chế, sinh viên sẽ bị xử lý kỷ luật với từng học phần đã vi phạm. 2. Sinh viên đi thi hộ hoặc nhờ người khác thi hộ, đều bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập một năm đối với trường hợp vi phạm lần thứ nhất và buộc thôi học đối với trường hợp vi phạm lần thứ hai. 3. Trừ trường hợp như quy định tại khoản 2 của Điều này, mức độ sai phạm và khung xử lý kỷ luật đối với sinh viên vi phạm được thực hiện theo các quy định của Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy. KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG (Đã ký) Bành Tiến Long GS. Lâm Quang Thiệp - Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài viết lấy từ Kỉ yếu HT: "Xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ có sử dụng Internet" ngày 26/05/2006 do Viện Nghiên cứu Giáo dục tổ chức. 1. Vài nét lịch sử về học chế tín chỉ 1.1. Thế giới Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên (SV) có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, vào năm 1872 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ thống chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi SV có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem sự kiện đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ.(1)(3)(4) Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ (TC) được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống TC trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, ấn Độ, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun... Tại Trung Quốc từ cuối thập niên 80 đến nay hệ thống TC cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học (3). Vào năm 1999, 29 bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh châu Âu đã ký Tuyên ngôn Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu (European Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế TC (European Credit Transfer System - ECTS) (5) trong toàn hệ thống GDĐH để tạo thuận lợi cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của SV trong khu vực châu Âu và trên thế giới. 1.2. Việt Nam Trước năm 1975 một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam Việt Nam đã áp dụng học chế TC: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức ... Trong quá trình "Đổi mới" ở nước ta từ cuối năm 1986 chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới GDĐH, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào tạo 2 giai đoạn và môdun-hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế "học phần" đã ra đời và được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần kiến thức theo các môđun trong quá trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng của học chế TC xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế TC của Mỹ (chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở mục 3), do đó nó được gọi là "sự kết hợp niên chế với TC", tuy nhiên những khó khăn về đời sống trong xã hội nói chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hóa triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các trường đại học dịu bớt, Bộ GD&ĐT chủ trương tiến thêm một bước, thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế TC của Mỹ. Trường Đại học Bách khoa tp. HCM là nơi đầu tiên áp dụng học chế TC từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy sản Nha Trang v..v.. và một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó. Hiện nay (2007) có gần 10 trường trong cả nước áp dụng học chế TC với các sắc thái và mức độ khác nhau.(2) 2. Đặc điểm của học chế tín chỉ 2.1. Đặc điểm chung - Hệ thống TC cho phép SV đạt được văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định, căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi là tín chỉ (credit). Định nghĩa chính thức về TC phổ biến ở Mỹ và một số nước như sau: Khối lượng học tập gồm 1 tiết học lý thuyết (50 phút) trong một tuần lễ và kéo dài 1 học kỳ (15 - 18 tuần) thì được tính 1 TC. Các tiết học loại khác như: thực tập thí nghiệm, đi thực địa, vẽ, nhạc, thực hành nghệ thuật, thể dục v.v... thì thường cứ 3 tiết trong một tuần kéo dài một học kỳ được tính một TC.. Ngoài định nghĩa nói trên, người ta còn quy định: để chuẩn bị cho 1 tiết lên lớp, SV phải bỏ ra ít nhất 2 giờ làm việc ở ngoài lớp. TC theo định nghĩa nói trên gắn với học kỳ 4 tháng (semester) được sử dụng phổ biến nhất ở Mỹ. Ngoài ra còn có định nghĩa tương tự cho TC theo học kỳ 10 tuần (quarter) được sử dụng ở một số ít trường đại học. Tỷ lệ khối lượng lao động học tập của hai loại TC này là 3/2. - Để đạt bằng cử nhân (Bachelor) SV thường phải tích luỹ đủ 120 - 136 TC (Hoa Kỳ), 120 - 135 TC (Nhật Bản), 120 - 150 TC (Thái Lan), v.v... Để đạt bằng thạc sĩ (master) SV phải tích luỹ 30 - 36 TC (Mỹ), 30 TC (Nhật Bản), 36 TC (Thái Lan) ... Theo ECTS của EU người ta quy ước khối lượng lao động học tập ước chừng của một SV chính quy trung bình trong một năm học được tính bằng 60 TC.(5) - Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu mỗi học kỳ, SV được đăng ký các môn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ và phù hợp với quy định chung nhằm đạt được kiến thức theo một chuyên môn chính (major) nào đó. Sự lựa chọn các môn học rất rộng rãi, SV có thể ghi tên học các môn liên ngành nếu họ thích. SV không chỉ giới hạn học các môn chuyên môn của mình mà còn cần học các môn học khác lĩnh vực, chẳng hạn SV các ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật vẫn cần phải học một ít môn khoa học xã hội, nhân văn và ngược lại. - Về việc đánh giá kết quả học tập, hệ thống TC dùng cách đánh giá thường xuyên, và dựa vào sự đánh giá đó đối với các môn học tích luỹ được để cấp bằng cử nhân. Đối với các chương trình đào tạo sau đại học (cao học và đào tạo tiến sỹ) ngoài các kết quả đánh giá thường xuyên còn có các kỳ thi tổng hợp và các luận văn. 2.2. Các ưu điểm của học chế tín chỉ Học chế TC được truyền bá nhanh chóng và áp dụng rộng rãi nhờ có nhiều ưu điểm. Có thể tóm tắt các ưu điểm chính của nó như sau: a.Có hiệu quả đào tạo cao: - Học chế TC cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức và kỹ năng của SV để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, SV được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình. Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau. - Học chế TC cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương diện này có thể nói học chế TC là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa (elitist) thành nền đại học mang tính đại chúng (mass). b.Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao: - Với học chế TC, SV có thể chủ động ghi tên học các học phần khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép SV dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu. = Với học chế TC, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của sinh viên. - Học chế TC cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước. c.Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo: - Với học chế TC, kết quả học tập của SV được tính theo từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, SV không bị buộc phải quay lại học từ đầu. Chính vì vậy giá thành đào tạo theo học chế TC thấp hơn so với đào tạo theo niên chế. - Nếu triển khai học chế TC các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho SV nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể học những môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với học chế TC, nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ một TC tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học. ở Mỹ trên một nghìn trường đại học chấp nhận cung cấp TC cho những kiến thức và kỹ năng mà người học đã tích luỹ được ngoài nhà trường. 2.3. Các nhược điểm của học chế tín chỉ và cách khắc phục Người ta thường nhắc đến hai nhược điểm quan trọng sau đây của học chế TC: a. Cắt vụ kiến thức: Phần lớn các môđun trong học chế TC được quy định tương đối nhỏ, cỡ 3 hoặc 4 TC, do đó không đủ thời gian để trình bày kiến thức thật sự có đầu, có đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiến thức bị cắt vụn. Đây thật sự là một nhược điểm, và người ta thường khắc phục nhược điểm này bằng cách không thiết kế các môđun quá nhỏ dưới 3 TC, và trong những năm cuối người ta thường thiết kế các môn học hoặc tổ chức các kỳ thi có tính tổng hợp để SV có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã học. b. Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên: Vì các lớp học theo môđun không ổn định, khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ như các lớp theo khóa học nên việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể của SV có thể gặp khó khăn. Chính vì nhược điểm này mà có người nói học chế TC "khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng đồng". Khó khăn này là một nhược điểm thực sự của học chế TC, tuy nhiên người ta thường khắc phục bằng cách xây dựng các tập thể tương đối ổn định qua các lớp khóa học trong năm thứ nhất, khi SV phải học chung phần lớn các môđun kiến thức, và đảm bảo sắp xếp một số buổi xác định không bố trí thời khoa biểu để SV có thể cùng tham gia các sinh hoạt đoàn thể chung... 3. Hiện trạng áp dụng học chế tín chỉ ở Việt Nam 3.1. Vài nét về hệ thống "niên chế" áp dụng trong giáo dục đại học nước ta trước năm 1988 Muốn hiểu quy trình đào tạo hiện nay trong GDĐH nước ta, cần nhắc lại vài nét về quy trình đào tạo trước khi có đổi mới GDĐH, tức là từ năm 1987 về trước. Sau năm 1975 hệ thống GDĐH thống nhất của nước ta được xây dựng theo mô hình chung của Miền Bắc, tức là mô hình Liên Xô cũ. Đó là hệ thống áp dụng quy trình đào tạo theo "niên chế" với các đặc điểm như sau (2): - Các lớp học được xếp theo khóa tuyển sinh, chương trình học được thiết kế chung cho mọi SV cùng một khóa; - Đơn vị học vụ được tính theo năm học, cuối mỗi năm học những SV nào đạt kết quả học tập theo quy định thì được lên lớp, SV không đạt thì bị ở lại lớp (lưu ban) học cùng SV khóa sau, tức là phải học lại thêm một năm học. - Tùy mức quan trọng của môn học việc đánh giá kết quả học tập thường theo hai cách: thi có cho điểm, và kiểm tra chỉ xác định đạt hay không đạt, không đạt phải kiểm tra lại. Không tính điểm trung bình chung, trong học bạ chỉ liệt kê điểm của các môn thi (được cho theo 5 bậc). 3.2. Về việc triển khai học chế học phần trong toàn bộ hệ thống đại học và cao đẳng nước ta a. Bản chất của học chế học phần: Phù hợp với công cuộc "đổi mới" kinh tế xã hội ở Việt Nam từ năm 1986, trong hệ thống GDĐH cũng triển khai nhiều đổi mới. Việc đưa học chế "học phần" vào toàn bộ hệ thống GDĐH Việt Nam từ 1988 đến nay là một trong các đổi mới đó. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản như sau (2): - Bản chất của học chế này sự tích lũy dần (accumulation) kiến thức. - Kiến thức được môđun hóa thành các học phần. Học phần là một môđun kiến thức tương đối trọn vẹn và không quá lớn (thực chất học phần là một môn học nhỏ, tương ứng với thuật ngữ subject của Mỹ) có thể lắp ghép với nhau để tạo nên một chương trình đào tạo dẫn đến một văn bằng, người học có thể luỹ dần trong quá trình học tập. - Để đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người học, khái niệm đơn vị học trình (ĐVHT) đã được đưa vào, đơn vị này về bản chất đồng nhất với khái niệm credit của hệ thống GDĐH Mỹ. - Để làm cho các chương trình đào tạo mềm dẻo, có 3 loại học phần được quy định: học phần bắt buộc phải học, học phần lựa chọn theo hướng dẫn của nhà trường và học phần tự chọn tuỳ ý. Ngoài ra cũng có quy định về việc việc được học thêm ngành đào tạo chính (major), ngành đào tạo phụ (minor) hoặc thêm văn bằng thứ hai. - Với tinh thần tích lũy kiến thức, mỗi học phần được đánh giá bằng một điểm (theo thang mười bậc) là kết quả tổng hợp của các đánh giá bộ phận và của một kỳ thi kết thúc. Có quy định điểm tối thiểu cần đạt được (thường là điểm 5) để xem như học phần được tích lũy. Kết quả học tập chung của học kỳ, năm học hoặc khóa học được đánh giá bằng điểm trung bình chung: đó là điểm trung bình của các học phần đã tích lũy với trọng số là số đơn vị học trình của từng học phần. b. Việc triển khai học chế học phần: - Cùng với học chế học phần, Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 3/12/1993 ban hành khung chương trình đào tạo, trong đó quy định khối lượng kiến thức tối thiểu và phân bố các thành phần kiến thức cho các văn bằng đại học. Cũng trong văn bản nêu trên có đưa ra định lượng cho đơn vị học trình cơ bản (=15 tiết giảng lý thuyết hoặc thảo luận = 30-> 45 giờ thực hành thí nghiệm = 45->90 giờ thực tập tại cơ sở = 45->80 giờ chuẩn bị tiểu luận hoặc luân văn). Theo quy định đó một chương trình dẫn đến bằng cử nhân 4 năm phải có khối lượng 210 ĐVHT. - Để đảm bảo sự thống nhất chung của quy trình đào tạo trong toàn bộ hệ thống GDĐH, Bộ GD&ĐT ban hành các Quy chế khung về đánh giá kết quả học tập, xét lên lớp, tốt nghiệp, để căn cứ vào đó từng trường đại học, cao đẳng xây dựng quy chế đánh giá kết quả học tập riêng của mình. Do sự vận dụng khác nhau tùy theo điều kiện và trình độ của từng trường, học chế học phần được thực hiện ở mỗi trường có các sắc thái khác nhau: khác nhau về mức độ thông tin cung cấp trước cho SV về chương trình đào tạo, khác nhau về mức độ có sẵn các học phần để lựa chọn ở các trường, để học thêm các ngành đào tạo chính, ngành đào tạo phụ hoặc văn bằng thứ hai... - Trong quá trình triển khai học chế học phần, có nhiều Quy chế về đào tạo và một số quy định khác có liên quan đến quy trình đào tạo đã lần lượt được Bộ GD&ĐT ban hành. Quy chế đào tạo theo học phần chính thức đầu tiên QC2238/QĐĐH được ban hành vào tháng 12 năm 1990 và quy chế QC2679/GD-ĐT được ban hành tháng 12 năm 1993 bổ sung hoàn chỉnh Quy chế trước. Ngày 11/12/1999 một quy chế mới, Quy chế 04/1999/QĐ-BGD-ĐT được ban hành, sau đó ra đời một vài quy định về các môn thi tốt nghiệp ở các trường đại học và cao đẳng. Rất đáng tiếc là các quy chế và quy định từ năm 1999 có một số điểm mâu thuẫn với bản chất của học chế học phần; buộc SV phải thi tốt nghiệp các học phần mà họ đã tích lũy. - QĐ 43/2007/QĐ-BGDĐT đã khắc phục các trở ngại tồn tại này... c. So sánh các học chế học phần được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và học chế tín chỉ ở Mỹ: Để hiểu rõ học chế học phần hiện nay ở Việt Nam và học chế TC ở ngay tại Mỹ, chiếc nôi của học chế TC, dưới đây sẽ nêu những điểm giống nhau và khác nhau về bản chất và về việc thực hiện các học chế đó. Giống nhau: - Bản chất của cả hai học chế là sự tích lũy dần các môđun kiến thức để đạt được văn bằng; - SV được lựa chọn một số môđun cho chương trình học của mình; - Việc đánh giá kết quả học tập được thực hiện nhờ điểm trung bình chung với trọng số là số lượng TC của các môđun. Khác nhau: - Các môđun kiến thức trong học chế TC của các trường đại học Mỹ được thiết kế theo trình độ năm học của sinh viên, tạo thuận lợi cho lựa chọn và lắp ghép, và nói chung mỗi môđun bao gồm 3 hoặc 4 TC; các học phần trong các chương trình học ở các trường đại học nước ta đôi khi được thiết kế theo kiểu chia cắt cơ giới, có một số học phần quá dài (hơn 4 ĐVHT) hoặc quá ngắn (1->2 ĐVHT). - Đối với các chương trình đào tạo của Mỹ có nhiều môđun khác nhau được đưa ra để SV lựa chọn nên mức độ tự do lựa chọn cao hơn; trong các chương trình đào tạo của các trường đại học nước ta thường có rất ít môđun để lựa chọn. - Lớp học theo học chế TC ở Mỹ thường được sắp xếp theo môđun, còn lớp học trong học chế học phần ở Việt Nam vẫn sắp xếp theo khóa học; - Ở các trường đại học Mỹ có một hệ thống Cố vấn học tập (CVHT) đầy đủ để tư vấn cho SV lựa chọn môđun và thiết kế quy trình học tập, mỗi SV vào trường được gắn với một CVHT; đối với học chế học phần ở nước ta chưa có hệ thống CVHT này; - TC ở Mỹ được quy định theo số giờ học mỗi tuần kéo dài trong một học kỳ, tùy theo học kỳ ngắn hay dài mà TC lớn hay nhỏ (ví dụ semester credit bằng cỡ 1,5 quarter credit vì semester kéo dài khoảng 15 tuần, quarter kéo dài khoảng 10 tuần); ĐVHT của ta được quy định bằng tổng số 15 tiết học lý thuyết ở lớp mà không nói rõ số giờ học trong tuần (xem 3.2.a). - Trong học chế TC ở Mỹ có quy định số giờ lao động học tập tối thiểu cần thiết của SV cho một giờ lên lớp (thường là 2/1). Để quy định này thực sự được thực hiện, ở các trường đại học Mỹ áp dụng rộng rải phương pháp dạy và học đảm bảo tính chủ động tích cực của SV, do trình độ giáo chức và điều kiện vật chất để áp dụng phương pháp dạy và học đó cũng được đảm bảo đầy đủ (tài liệu học tập, thư viện, phòng thí nghiệm cần cho SV làm việc...). Việc quy định khối lượng tài liệu học tập và tham khảo mà SV phải đọc đối với một môđun và cách ra đề thi cho môdun đó dựa vào yêu cầu của môn học và khối lượng tài liệu quy định (chứ không phải dựa vào những điều mà giảng viên đã trình bày ở lớp) cũng cho phép kiểm tra việc chuẩn bị ngoài giờ học. ở Việt Nam chưa có quy định nói trên đối với học chế học phần và cũng chưa đủ các điều kiện để thực hiện quy định như vậy. Vì khối lượng lên lớp mỗi tuần khá lớn (thường >30 tiết/tuần) nên ở Việt Nam thực chất thời gian chuẩn bị của SV cho mỗi tiết học ở lớp thường không quá 1/1. Như vậy, tính theo khối lượng lao động học tập của SV 1 TC của Mỹ bằng cỡ 1,5 ĐVHT của ta. - Ở các trường đại học Mỹ việc cung cấp thông tin về chương trình và lịch trình giảng dạy, thi, kiểm tra cho SV rất đầy đủ, đặc biệt thể hiện ở niên lịch giảng dạy được công bố chính thức trước mỗi năm học. Thời gian biểu học và thi đã công bố được thực hiện nghiêm chỉnh. ở Việt Nam khi thực hiện học chế học phần điều này nói chung chưa được nhiều trường thực hiện. - Việc đánh giá kết quả học tập của SV đối với mỗi môdun ở các trường đại học Mỹ được thực hiện liên tục trong cả quá trình giảng dạy môdun đó, do đó thời gian dành để thi học kỳ cho các môn học thường chỉ có một tuần; ở các trường đại học nước ta việc học cẩn thận và đánh giá từng phần môn học ít diễn ra thường xuyên trong quá trình giảng dạy mà chủ yếu được thực hiện sau khi kết thúc việc dạy môđun, do đó cuối mỗi học kỳ thời gian dành cho việc thi các học phần thường diễn ra khoảng 4 tuần. Như vậy, qua các so sánh nêu trên, có thể thấy rõ học chế học phần ở Việt Nam cũng có cùng bản chất như học chế TC của Mỹ, đó là tích lũy dần kiến thức được môđun hóa, nói cách khác, học chế học phần ở nước ta đã chứa một số yếu tố của học chế TC của Mỹ. Tuy nhiên tính mềm dẻo của học chế học phần ở nước ta chưa cao như học chế TC của Mỹ, nói cách khác chúng ta chưa tận dụng triệt để các ý tưởng làm mềm dẻo quy trình đào tạo của học chế TC của Mỹ. 3.3. Việc triển khai học chế học phần triệt để (học chế tín chỉ) ở một số trường đại học nước ta. Như đã phân tích ở trên, căn cứ vào các quy chế đào tạo đã ban hành và việc thực hiện học chế học phần, có thể thấy học chế học phần ở nước ta chưa đạt được độ mềm dẻo cao, vì nó chưa thể hiện các ý tưởng của học chế TC một cách triệt để. Bởi vậy học chế học phần chỉ có thể xem như một bước đệm trong quá trình chuyển từ học chế niên chế sang học chế TC. Bước đệm này là cần thiết khi điều kiện vật chất và trình độ đội ngũ giáo chức chưa hội đủ để thực hiện học chế TC thực sự. Từ niên khoá 1993-1994 Bộ GD&ĐT khuyến khích các trường đại học cải tiến học chế học phần để có học chế học phần triệt để hơn, hoặc nói cách khác là áp dụng học chế TC kiểu Mỹ cho quy trình đào tạo đại học nước ta. Nơi đầu tiên thực hiện quá trình chuyển đổi này là trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh (niên khóa 1993-94), sau đó là các trường Đại học Đà Lạt, Cần Thơ, Thuỷ sản Nha Trang (niên khóa 1994-95), một khoa của trường Đại học Xây dựng Hà Nội, trường Đại học Dân lập Thăng Long ...Cần lưu ý là việc chuyển từ học chế học phần sang học chế TC thực chất là cải tiến và tăng sự mềm dẻo của học chế học phần hiện có, đo đó đây là một quá trình liên tục, không phải đột biến. Cũng không phải hễ sử dụng thuật ngữ TC thay cho ĐVHT để đo lường khối lượng lao động học tập thì được gọi là áp dụng học chế TC. Một ví dụ về hiện tượng này là trường hợp Đại học mở Bán công tp. HCM: trong "Sổ tay SV năm 2003" (10) có ghi là nhà trường áp dụng học chế TC, nhưng trong "Sổ tay SV năm 2004" (11) lại tuyên bố là áp dụng học chế niên chế kết hợp với học phần. Vì vậy, trong bài này, nơi nào cải tiến học chế học phần theo hướng làm cho nó mềm dẽo gần như học chế TC ở Mỹ thì sẽ được qui ước gọi là đã áp dụng học chế TC. Theo tinh thần đó, cho đến nay có khoảng mười trường đại học công lập và dân lập ở nước ta có thể xem như đã áp dụng học chế TC. Qua việc tìm hiểu tình hình triển khai học chế TC ở một số cơ sở (Đại học Quốc gia tp. HCM, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Đại học Dân Lập Thăng Long) có thể nêu một số nhận xét sau đây về hiện trạng áp dụng học chế TC ở nước ta. a. Về đơn vị đo lường: Tuy tất cả các trường nói trên đều gọi đơn vị đo lường khối lượng lao động học tập của SV là TC, nhưng định mức của đơn vị không thống nhất. Các trường ĐH Cần thơ, ĐH KHTN thuộc ĐHQG tp. HCM định nghĩa TC giống như định nghĩa ĐVHT trong Quyết định 2677/GD-ĐT của Bộ GD&ĐT, và cũng quy định văn bằng cử nhân ứng với khối lượng học tập là 210 TC (6). Riêng ĐHBK tp. HCM định nghĩa TC giống như định nghĩa của hệ thống TC của Mỹ, và quy định văn bằng kỹ sư thiết kế cho 4,5 năm ứng với khối lượng 155 TC (9). Các trường nói trên đều có tổ chức thêm học kỳ hè 7->8 tuần. Đại học Dân lập Thăng Long thiết kế học chế TC theo học kỳ khoảng 10 tuần (quarter), mỗi năm học có 3 học kỳ, văn bằng cử nhân có khối lượng 210->224 TC (12). b. Về thông tin cho sinh viên: Các trường đã khảo sát đều có Sổ tay SV để giới thiệu quy trình đào tạo và các quy định về thủ tục đăng ký học phần, thi kiểm tra... Tuy nhiên chỉ có ĐHBK tp HCM có công bố Niên giám giới thiệu chương trình tóm tắt các môn học gần tương tự như các niên lịch giảng dạy ở các trường đại học Mỹ. c. Về cách thiết kế các học phần: ở ĐH KHTN thuộc ĐHQG tp HCM mỗi HP được thiết kế có từ 1 đến 6 TC, thậm chí có học phần chứa số bán nguyên 1,5 TC (8); ở ĐHBK thuộc ĐHQG tp HCM một học phần chứa từ 1 đến 4 TC, tại đây có một số trường hợp số giờ lên lớp hàng tuần nhiều hơn số TC (10) . Như vậy là ngay trong ĐHQG tp HCM cách định nghĩa TC và cách thiết kế môn học cũng không giống nhau. d. Về điều kiện dạy và học, phương pháp dạy và học: ĐHBK tp. HCM là nơi đảm bảo tài liệu học tập tương đối tốt: mỗi môn học được quy định phải có ít nhất 1 tài liệu tiếng Việt, 1 tài liệu tiếng Anh và một tài liệu tham khảo khác. ở các trường khác việc đảm bảo tài liệu có yếu hơn. Về điều kiện giảng dạy, ĐHBK tp HCM có trang bị máy chiếu hắt ở mọi phòng học và máy chiếu đa phương tiện cho 17 giảng đường, các trường khác cũng có nhiều cố gắng về phương diện này. Tuy nhiên, phương pháp dạy và học mới nhằm dạy cách học, đảm bảo tính chủ động của SV và tận dụng công nghệ mới được sử dụng chỉ ở một bộ phận giáo chức và học phần, chưa trở thành phổ biến trong các trường áp dụng học chế TC. Như vậy vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học chủ yếu không phải ở phương tiện, trang bị mà là ở con người. đ. Về tổ chức đăng ký học phần: Các trường đều tổ chức đăng ký học phần vào đầu học kỳ, xử lý sơ bộ kết quả đăng ký và cho đăng ký lại nếu một số môn học không đủ chỗ hoặc thiếu số SV tối thiểu được quy định (ĐHBK tp HCM quy định tối thiểu 80 SV đối với các môn học cơ sở, 40 SV đối với các môn học của nhóm ngành đào tạo, 20 SV đối với các môn học của ngành đào tạo) (9). Đối với SV chính quy, các trường có quy định số TC tối thiểu và tối đa được phép đăng ký học trong một học kỳ (14-> 20 TC ở ĐHBK tp HCM; 18->35 TC ở ĐH KHTN tp. HCM; ĐH Cần Thơ -> 40 TC) (7)(8)(10). Đối với SV học kỳ 1 hoặc cả năm thứ nhất hầu như không tổ chức đăng ký, vì chương trình đào tạo bao gồm hầu hết các môn bắt buộc. Cần lưu ý là việc đăng ký học phần cho một học kỳ sắp tới đòi hỏi phải có kịp thời kết quả đánh giá các học phần của học kỳ trước, do đó để triển khai học chế TC được trơn tru, cần tổ chức thúc đẩy tốc độ chấm bài của giáo chức. Đối với các môn học đông SV nếu dùng phương pháp thi tự luận thì công đoạn này thường bị kéo daì. Việc không tổ chức đăng ký cho SV năm thứ nhất cũng tạo nên các lớp khóa học ổn định trong năm đầu, thuận lợi cho các tổ chức hoạt động khác của SV (sẽ nói dưới đây). Về công nghệ đăng ký học phần, một số trường sử dụng máy quét chuyên dụng để nạp dữ liệu, một vài trường đã và đang thử nghiệm đăng ký trực tuyến (ĐHDL Thăng Long, ĐH Cần Thơ). Theo ĐHBK tp HCM, chưa thể triển khai đăng ký trực tuyến hoàn toàn tự động như một số trường đại học nước ngoài (SV đăng ký, máy chấp nhận hoặc từ chối ngay) vì nhà trường chưa đủ nguồn lực để thỏa mãn mọi nguyện vọng của sinh viên mà cần phải nhiều lần điều chỉnh các lớp học phần. e. Về tổ chức thu học phí: Học phí được thu theo số lượng học phần mà sinh viên đăng ký, giá mỗi học phần được tính tùy theo số giờ lý thuyết, bài tập, thực tập ...ĐHBK tp HCM quy đổi ra TC học phí đối với mỗi học phần để định giá học phần. ĐH Cần Thơ có sáng kiến hợp đồng vớn Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để Ngân hàng giúp thu học phí và chuyển về tài khoản nhà trường, sáng kiến này tăng tính chuyên môn hóa và đảm bảo sự trong sáng của khâu thu học phí. f. Về các tổ chức sinh hoạt tập thể trong cộng đồng sinh viên: Đây là vấn đề nhiều người quan tâm, vì nó liên quan đến một nhược điểm của học chế TC. Các trường áp dụng học chế TC đều tổ chức hai loại lớp học: lớp khóa học gồm các SV đăng ký vào học cùng ngành đào tạo ở năm đầu tiên, lớp học phần gồm các SV cùng học một học phần. Lớp khóa học giữ cố định trong cả khóa học, nơi hình thành các tổ chức đoàn thể của sinh viên. Lớp học phần thường là tạm thời, nơi thông báo các thông tin về học tập và tổ chức các sinh hoạt học tập liên quan đến học phần. Để các sinh hoạt của lớp khóa học và các đoàn thể không vướng thời gian học ở lớp của SV, mọi sinh hoạt của lớp khóa học đều tổ chức vào thứ 7 và chủ nhật. ĐHBK Tp. HCM tổ chức tốt các hoạt động "mùa hè xanh", vận động quyên góp ximăng xây hàng trăm "cầu Bách khoa" cho các vùng nông thôn Đồng bàng Sông Cửu Long. Các sinh hoạt theo chủ đề tỏ ra hấp dẫn đối với SV và rất có hiệu quả: SV tham gia các sinh hoạt tăng cường kỹ năng giao tiếp, hoặc tổ chức đi phỏng vấn người nước ngoài ở các cơ sở du lịch và về trình bày lại trong các hội thảo nhằm tăng cường năng lực ngoại ngữ. Đối với các lớp học phần, do sức ép của khối lượng học tập lớn nên SV cũng tự động tổ chức các hình thức trao đổi học tập theo nhóm để hỗ trợ nhau trong việc chuẩn bị bài tập...Nói chung tuy việc tổ chức lớp theo khóa học hoàn toàn cố định bị phá vỡ, "lớp khóa học" tương đối ổn định trong một vài năm đầu vẫn được duy trì để tổ chức mọi sinh hoạt đoàn thể của SV, kết hợp với các "lớp học phần" tạm thời. Hơn nữa, với sự sáng tạo của SV trong hoàn cảnh mới, với sức ép mạnh mẽ của khối lượng học tập đòi hỏi tính chủ động cao của SV, nhược điểm liên quan của học chế TC có thể được khắc phục tốt. Thành tích hoạt động SV và Đoàn TNCS của ĐHBK tp. HCM trong phong trào SV tp HCM chứng tỏ điều đó. g. Về hệ thống cố vấn học tập (CVHT): Hệ thống CVHT thường được tổ chức ở các trường gắn với các lớp khóa học, đôi khi CVHT được gọi là chủ nhiệm lớp khóa học. Các phiếu đăng ký học phần phải được thông qua và có chữ ký của CVHT (ĐHBK tp HCM). Tuy nhiên, vì hoạt động của giáo chức nói chung ở mọi trường đại học đều quá tải, số lượng CVHT tương đối ít (tỷ lệ 1 CVHT/60 SV ở ĐHBK tp.HCM) nên việc giúp đỡ của CVHT đối với SV là có giới hạn. Các trường phải theo phương châm là CVHT tập trung chú ý các đối tượng SV ở hai đầu: SV học tập xuất sắc cần bồi dưỡng tài năng và SV gặp nhiều khó khăn. h. Về việc chuyển tiếp tín chỉ: Học chế TC đã thực hiện ở một số trường đại học trong hơn một thập niên nhưng việc phát huy một trong các ưu điểm lớn của nó là chuyển tiếp TC chưa được triển khai phổ biến. Lý do là phạm vi áp dụng học chế TC còn hẹp, và chưa có các định mức thống nhất, thiết kế thống nhất trong cả nước (thậm chí ngay trong một nhà trường như ĐHQG tp HCM)(*) và cũng chưa có các hoạt động điều phối để liên kết các trường tạo thuận lợi cho việc chuyển tiếp TC đó. Đặc biệt hệ thống cao đẳng cộng đồng được thành lập nhưng không tạo được mối liên thông với các trường đại học có chuyên nghiệp để có thể đào tạo chuyển tiếp. Qua việc triển khai học chế TC ở một số trường đại học nước ta, có thể thấy rõ học chế này mang lại nhiều lợi ích trong công tác giáo dục đào tạo ở trường đại học: nó làm cho SV chủ động hơn trong hoạt động học tập, đặc biệt nó tạo một tác phong công nghiệp đối với mọi hoạt động của nhà trường, kể cả trong SV và trong giáo chức, vì mọi hoạt động đào tạo trong trường phải được khớp nối đúng thời gian và địa điểm. Với học chế TC việc hỗ trợ sinh viên thuộc diện chính sách hoặc diện học yếu phải kéo dài thời gian học tập thuận lợi hơn nhiều so với kiểu học theo niên chế. Tuy nhiên, việc triển khai học chế TC cũng gặp rất nhiều khó khăn về phía những người trực tiếp thực hiện: trước hết, đối với SV, những người đã được "chăn dắt" từ trường phổ thông khi bước vào trường đại học hết sức ngỡ ngàng về mọi mặt, học chế TC tạo nên bước chuyển khá đột ngột, họ phải mất một thời gian để làm quen. Đối với giáo chức, khó khăn lớn nhất là tình trạng quá tải hiện nay của hoạt động giảng dạy ở tất cả mọi trường đại học làm họ không còn đủ thời gian để đầu tư vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và các hoạt động khác mà học chế TC đòi hỏi. Hơn nữa, học chế TC làm cho mức độ tự do của giáo chức giảm nhiều vì họ phải được gắn với các giờ học và lớp học xác định phân bố trong suốt cả học kỳ, rất khó bố trí tập trung thời gian cho các hoạt động khác ở ngoài trường. Từ đó cần có những vận động để hoạt hóa sinh viên và nâng cao trách nhiệm của giáo chức thì việc triển khai học chế TC mới thuận lợi. 4. Về phương hướng mở rộng và cải tiến học chế tín chỉ ở nước ta. 4.1. Chủ trương về việc mở rộng và cải tiến học chế tín chỉ ở nước ta. Nhằm tăng tính liên thông của hệ thống GDĐH nước ta và hội nhập với GDĐH thế giới, trong mấy năm gần đây Nhà nước đã đưa ra chủ trương mở rộng áp dụng học chế TC trong hệ thống GDĐH nước ta. Trong "Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2010" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 47/2001/QĐ-TTg có nêu: các trường cần "thực hiện quy trình đào tạo linh hoạt, từng bước chuyển việc tổ chức quy trình đào tạo theo niên chế sang học chế TC." Trong "Báo cáo về Tình hình Giáo dục" của Chính phủ trước kỳ họp Quốc hội tháng 10 năm 2004 lại khẳng định mạnh mẽ hơn: "Chỉ đạo đẩy nhanh việc mở rộng học chế TC ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ngay từ năm học 2005-2006, phấn đấu để đến năm 2010 hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều áp dụng hình thức tổ chức đào tạo này". Như vậy để thực hiện được các chủ trương của Nhà nước về mở rộng học chế TC, cần khẩn trương xây dựng một lộ trình chuyển đổi từ học chế học phần hiện nay sang học chế TC trong toàn hệ thống GDĐH. 4.2. Về mục tiêu và một số quan niệm về chuyển đổi a. Việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ nhằm mục tiêu gì? Chúng ta đã áp dụng học chế học phần, trong đó có chứa đựng một số yếu tố của học chế TC từ khi bắt đầu đổi mới GDĐH cách đây gần hai thập niên, lúc hoàn cảnh kinh tế xã hội và điều kiện dạy và học ở đại học hết sức khó khăn. Và khi điều kiện dạy và học được cải thiện một số trường đại học đã cải tiến, làm mềm dẻo triệt để học chế học phần, tức là chuyển đổi sang học chế TC. Tuy nhiên chỉ vài ba năm gần đây Nhà nước mới đưa ra chủ trương nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi này trong toàn bộ hệ thống GDĐH. Vậy sự chuyển đổi này nhằm mục tiêu gì? - Trước hết là tạo một học chế mềm dẻo hướng về SV để tăng cường tính chủ động và khả năng cơ động của SV, để đảm bảo sự liên thông dễ dàng trong quá trình học tập và tạo ra những sản phẩm có tính thích ứng cao với thị trường sức lao động trong nước; - Đồng thời, trong xu thế toàn cầu hóa, làm cho hệ thống GDĐH nước ta hội nhập với khu vực và thế giới. b. Quan niệm về việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ ở nước ta - Như đã phân tích trên đây học chế học phần được áp dụng hiện tại trong toàn bộ hệ thống GDĐH nước ta đã mang một số yếu tố của học chế TC, nhưng chưa đủ mềm dẻo vì chưa tận dụng hết các biện pháp tạo nên sự mềm dẻo đó. Vì vậy việc chuyển đổi sang học chế TC có nghĩa là cải tiến học chế học phần, tăng cường áp dụng các biện pháp tạo nên sự mềm dẻo đó. Quá trình chuyển đổi không có nghĩa là xóa bỏ học chế này để chuyển sang học chế khác, mà là cải tiến học chế đang sử dụng để tăng mức độ mềm dẻo, cơ động của nó. - Việc chuyển đổi sang học chế TC, tạo nên sự mềm dẻo của quy trình đào tạo cần phải được kết hợp một cách logic với việc phát triển và hiện đại hóa chương trình đào tạo, bao gồm việc đổi mới mục tiêu, nội dung đào tạo và đặc biệt là phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên. 4.3. Về lộ trình chuyển đổi Chúng tôi xin đề xuất một số bước của lộ trình chuyển đổi sang học chế TC cho toàn bộ hệ thống GDĐH nước ta. a. Rút kinh nghiệm về việc thực hiện học chế học phần hiện tại, và đặc biệt là học chế TC ở một số trường đại học để nêu ra những yếu kém cần khắc phục và phương hướng phát triển; b. Chuẩn bị đầy đủ các văn bản khung cho toàn bộ hệ thống về học chế TC. Điều chỉnh những quy định trong các văn bản đã có trái với bản chất của học chế TC. Tổ chức tập huấn cho giáo chức và cán bộ quản lý các trường đại học về học chế TC. c. Các trường tổ chức thiết kế lại hoặc rà soát lại chương trình đào tạo các ngành học, phân chia và xây dựng lại chương trình chi tiết các học phần theo tinh thần học chế TC và kiến thức cập nhật, hiện đại. Bộ điều phối xây dựng chương trình mẫu của một số học phần thuộc khu vực giáo dục đại cương để các trường tham khảo nhằm tăng mức độ thống nhất tạo cơ hội để chuyển tiếp TC. Các khối ngành và ngành đào tạo triển khai áp dụng thành quả của quá trình xây dựng chương trình khung vừa qua. d. Bộ và các trường tìm biện pháp tăng số lượng đội ngũ giáo chức để giảm một cách đáng kể tải trọng giảng dạy, đồng thời tạo cơ chế nâng cao thu nhập của giáo chức, xem đây là khâu quan trọng nhất để triển khai thành công việc chuyển đổi sang học chế TC. đ. Triển khai một cuộc vận động đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập trong hệ thống GDĐH. e. Chuẩn bị nghiệp vụ cho đội ngũ CVHT. Nghiên cứu các hình thức thích hợp cho việc tổ chức và hoạt động của các đoàn thể sinh viên. f. Xây dựng các công cụ phổ biến cho SV về chương trình và quy trình học tập, phục vụ học chế TC, đặc biệt là niên lịch giảng dạy. g. Xây dựng hệ thống tài liệu học tập cho mọi học phần bằng cách: (1) qua mạng liên kết thư viện thông báo các tài liệu liên quan đến học phần đã có trong các trường đại học; (2) Tổ chức liên kết các trường đại học khai thác các nguồn tư liệu mở trên mạng (tổ chức biên dịch, phổ biến); (3) Tổ chức phối hợp biên soạn các tài liệu phục vụ các học phần không đủ tài liệu. h. Dựa vào các trung tâm học liệu nòng cốt và các trường đại học mạnh xây dựng các bộ công cụ phục vụ giảng dạy và đánh giá học phần, trước hết là các học phần giáo dục đại cương, các học phần các môn cơ sở cho nhóm ngành. Tổ chức trao đổi và chuyển giao các công cụ này. i. Liên kết xây dựng và phổ biến, chuyển giao các công nghệ điều hành đào tạo theo học chế TC: các phần mềm quản lý đào tạo, các công cụ chuyên dụng để đăng ký học phần, các phần mềm tiếp cận trực tuyến... k. Với sự khuyến khích và điều phối của Bộ, các trường có khả năng có nhiều SV chuyển đổi tổ thức trao đổi ký kết công nhận lẫn nhau về học phần TC, đặc biệt là các trường cao đẳng cộng đồng và các trường đại học có chuyên ngành liên quan. l. Quan hệ với các trường đại học và các tổ chức điều phối GDĐH trong khu vực và trên thế giới để thỏa thuận về việc công nhận văn bằng và TC của nhau. Trên đây mới là các ý kiến phác thảo về lộ trình chuyển đổi từ học chế học phần hiện tại sang học chế TC. Với kinh nghiệm điều hành việc dạy và học theo học chế học phần nhiều năm qua, chắc chắc các trường đại học sẽ có nhiều sáng kiến đóng góp để bổ sung cho lộ trình đã nêu. Trước thánh thức của GDĐH nước ta trong thời kỳ mới, thời kỳ phát triển GDĐH thích ứng với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, với sự quyết tâm của Nhà nước, hy vọng việc chuyển đổi mạnh mẽ sang học chế TC sẽ tìm được sự đồng thuận trong cộng đồng đại học nước ta và trong xã hội, và hệ thống GDĐH Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng và ổn định. Tài liệu tham khảo 1. The History of Higher Education, ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom Publishing, 1997. 2. Lâm Quang Thiệp, Lê Viết Khuyến: Chương trình và quy trình đào tạo đại học. trích: "Một số vấn đề về Giáơ dục đại học", NXB ĐHQG Hà Nội, 2004. 3. Arthur Levine - Handbook on Undergraduate Curriculum. San Francissco: Jossey Bass, 1978. 4. Omporn Regel - The Academic Credit System in Higher Education: Effectivness and Relevance in Developing Country - The World Bank (Bản dịch: "Về hệ thống tín chỉ học tập" - Bộ Giáo dục và Đào tạo - 1994) 5. European Credit Transfer System - An Outline. Source: European University Association webpage, http://www.unige.ch/eua/En/Activities/ECTS/welcome.html 6. Bộ GD&ĐT: Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 3/12/1993 ban hành khung chương trình đào tạo. 7. Quy định về công tác học vụ áp dụng từ năm học 2004-2005. Trường ĐH Cần Thơ 8. Sổ tay sinh viên: Quy chế đào tạo theo học chế tín chỉ. Trường ĐH KHTN, ĐHQG tp. HCM. 2004. 9. Niên giám. Trường ĐH BK, ĐHQG tp. HCM, 2002. 10. Sổ tay Sinh viên: dùng cho Học kỳ 1 năm học 2005-2006. ĐHBK tp HCM 11. Sổ tay Sinh viên: dùng cho SV hệ chính quy tập trung. Đại học mở bán công tp. HCM. 2003. 12. Sổ tay Sinh viên: dùng cho SV hệ chính quy tập trung. Đại học mở bán công tp. HCM. 2003. 12. Quy chế học vụ. Đại học Dân lập Thăng Long. Theo Nguyễn Hữu Việt Hưng
Khi học hết bậc phổ thông, nói chung người ta khó có thể đưa ra một lựa chọn nghề nghiệp hoàn toàn đúng đắn trong suốt cả cuộc đời. Có những người chọn sai và muốn chọn lại. Hệ thống đào tạo theo tín chỉ có ưu điểm rõ rệt là nó dành cho người học một sự tự chủ và quyền tự quyết rất lớn. Đặc điểm có lẽ là lớn nhất của đào tạo theo tín chỉ là: Phần lớn sinh viên trong những năm học đầu đều chưa biết và không nhất thiết phải xác định họ sẽ theo học ngành nào. Họ cứ vừa học vừa tự tìm hiểu thiên hướng nghề nghiệp của chính mình. Chỉ tới khoảng cuối năm thứ hai hoặc năm thứ ba họ mới cần định hướng ngành học của mình bằng những tín chỉ nhất định mà họ chọn lựa. Cứ có “đủ bộ” tín chỉ của một ngành học nào đó thì họ được cấp bằng tốt nghiệp của ngành học ấy. Nếu muốn chuyển từ một ngành này sang một ngành khác, họ chỉ cần tự thay đổi một số tín chỉ, chứ không phải học lại từ đầu. Ở nước ta, dù đang định triển khai đào tạo theo tín chỉ, nhưng đặc điểm mấu chốt này của hệ thống đào tạo đó lại chưa bao giờ được ý thức, bàn thảo, nhằm thực thi đầy đủ. Bắt đầu một học kỳ của sinh viên - Ở Mỹ, bắt đầu một học kỳ mỗi sinh viên tự quyết định các môn mà mình sẽ theo học trong học kỳ đó, nhằm thu được một số tín chỉ nhất định. Nếu học ít môn quá, thì thời gian học sẽ kéo dài, tăng phí tổn, và khó được nhận học bổng. (Học bổng được quyết định trên cơ sở số tín chỉ và kết quả của các tín chỉ mà sinh viên thu được trong học kỳ trước.) - Nếu học nhiều môn quá thì sinh viên không đủ sức lực và thời gian. Tất nhiên, mỗi môn học đều có đòi hỏi tiên quyết về những môn sinh viên phải học trước đó. Trong mỗi học kỳ, mỗi môn học đều được giảng bởi nhiều giáo sư khác nhau, ở nhiều lớp khác nhau, tại nhiều thời điểm khác nhau. Sinh viên được quyền đăng ký vào học ở một trong các lớp này, chủ yếu dựa trên sự phù hợp về thời gian của họ với thời gian biểu của lớp học. - Nhớ rằng nhiều sinh viên vừa đi làm vừa đi học. Số sinh viên của mỗi lớp học thường được giữ cho không vượt quá 40 hoặc 50 người (tùy đại học). Vì thế, nếu đăng ký muộn, sinh viên có thể không được xếp vào lớp mà anh ta muốn. Sinh viên được quyền học thử trong khoảng 1-2 tuần (tùy từng đại học), sau thời gian thử đó, sinh viên có thể xin đổi lớp (để có thời gian biểu phù hợp hơn, hoặc để được học một giáo sư mà người đó thích), hoặc xin thôi học môn này mà vẫn được hoàn lại học phí. - Tóm lại, trong đào tạo theo tín chỉ, không có khái niệm hai sinh viên học cùng một lớp, chỉ có hai sinh viên học cùng một môn học. Các khái niệm lớp trưởng và giáo viên chủ nhiệm cũng do đó mà trở nên vô nghĩa. Những ràng buộc và hỗ trợ của giáo sư khi nhận một môn học - Mỗi môn học đều có Đề cương do Khoa quy định và được đưa lên mạng từ trước. Đề cương này nêu rõ: Học theo sách nào, học những chương nào, những tiết nào bắt buộc, những tiết nào tùy chọn, mỗi chương và mỗi tiết chiếm thời lượng xấp xỉ bao nhiêu... - Trên thực tế, nếu làm đúng như đề cương đòi hỏi, thì bài giảng của các giáo sư khác nhau cũng không khác nhau nhiều, và chất lượng của môn học đã được đảm bảo chắc chắn. Khoa cử một giáo sư có nhiều kinh nghiệm làm điều phối viên cho mỗi môn học. Nhiệm vụ của người này là trả lời những thắc mắc của các giáo sư ít kinh nghiệm hơn, thống nhất quan điểm của các giáo sư cùng dạy môn này, và nhắc nhở mọi người về thời gian các kỳ thi giữa và cuối kỳ. Họ thường làm tất cả những trao đổi này qua email, chứ không cần họp hành. - Khi nhận phân công giảng dạy một môn học, mỗi giáo sư được thông báo thông qua mạng thời gian và địa điểm dạy, thời gian và địa điểm thi hết môn. Mỗi giáo sư được giao một trợ lý, làm việc chấm bài tập về nhà cho môn học mà mình dạy. Người này thường là sinh viên giỏi của năm trên, được đại học thuê làm một phần thời gian. Nhiệm vụ của người này là chấm bài tập và lên điểm. Cuối học kỳ giáo sư đánh giá chất lượng công việc của người trợ lý. Trên cơ sở đó, Khoa sẽ quyết định có tiếp tục thuê người này nữa hay thôi. Đề cương (syllabus – giáo trình, bản tóm lược, tóm tắt) môn học của giáo sư - Trước khi môn học bắt đầu, giáo sư phải soạn một đề cương chi tiết, phát bản in của nó cho mỗi sinh viên trong buổi học đầu tiên và đưa nó lên trên mạng. Nội dung của đề cương ngoài những quy định chung của đại học là những quy định riêng của giáo sư đó đối với sinh viên. Đề cương môn học của giáo sư khác với đề cương môn học của Khoa và phải chi tiết hơn. - Điểm của môn học được quyết định dựa trên điểm bài tập về nhà, điểm của hai kỳ thi giữa học kỳ, và điểm kỳ thi hết môn. Giáo sư được quyền quyết định tỷ lệ phần trăm của những điểm thành phần nói trên trong điểm của môn học. Thời điểm thi của các kỳ thi giữa học kỳ do giáo sư tự quyết định, và thường được thông báo ngay từ đầu học kỳ, trong syllabus của giáo sư. - Giáo sư phải bố trí cho mỗi lớp mình dạy mỗi tuần khoảng 2-3 lần, mỗi lần 1 giờ, cái gọi là “thời gian văn phòng”. Đó là lúc mà giáo sư có nghĩa vụ phải ở phòng làm việc của mình, để cho sinh viên có thể tới hỏi bài. Mỗi giáo sư ở Mỹ đều có phòng làm việc riêng, nên chuyện này không có gì phiền phức. Sinh viên cũng có thể liên hệ với giáo sư qua email hoặc điện thoại để hẹn giờ hỏi bài riêng. - Giáo sư thông báo địa chỉ trang web cá nhân, nơi sinh viên nhận bài tập và những lời dặn mỗi tuần, thông báo thời gian nhận và trả bài tập về nhà hàng tuần. - Tất cả những thông tin trên đây đều được viết rõ ràng và chi tiết trong đề cương môn học của riêng giáo sư, và được đưa lên mạng từ đầu học kỳ. Việc dạy và học - Một số đại học của Mỹ chia một năm thành 4 học kỳ, gọi là semester hay quarter, mỗi học kỳ 3 tháng. Sinh viên có thể học 3 hoặc 4 học kỳ một năm. Một số đại học khác lại chia một năm thành 3 học kỳ, gọi là semester, mỗi học kỳ 4 tháng). Sinh viên có thể học 2 hoặc 3 học kỳ một năm. - Trên nguyên tắc, người ta khuyến khích giáo sư đối thoại với sinh viên trong lúc giảng bài, nhưng việc giảng bài trên lớp tại Mỹ về cơ bản không khác với việc giảng bài tại Việt Nam (ít nhất là về môn toán). Điểm khác căn bản có thể là ở chỗ sinh viên Mỹ không thích nói quá nhiều về lý thuyết, họ quan tâm và đòi hỏi bài giảng lý giải ý nghĩa và ứng dụng thực tế của vấn đề. Họ cũng chú trọng các kỹ năng thực hành. Họ có thể bình tĩnh khi chưa thấu đáo ý nghĩa lý thuyết của vấn đề, nhưng nếu họ không làm được bài tập thì họ sẽ kéo đến rất đông trong giờ văn phòng của giáo sư. - Hàng tuần sinh viên nhận bài tập được giao trên mạng. Bài tập có thể gồm 2 loại, một loại dành cho luyện tập và không phải nộp, một loại khác sinh viên phải nộp lại cho giáo sư vào thời điểm đã hẹn của tuần tiếp theo. Giáo sư chuyển các bài tập vào hòm thư của mình để người trợ lý tới lấy, chấm bài, lên điểm và chuyển lại vào hòm thư cho giáo sư. - Việc thường xuyên có mặt tại lớp không phải một nghĩa vụ của sinh viên. Do đó, việc điểm danh sinh viên đi học tự nó trở nên vô nghĩa. - Giáo sư có thể giao một vài vấn đề cho sinh viên tự đọc. Tuy nhiên, ít nhất là đối với môn toán, những vấn đề này thường là không cốt yếu, và không cần dùng tới trong phần còn lại của giáo trình. - Tôi không hề thấy giờ tự học của sinh viên được ghi trong chương trình của đại học. Sinh viên ở bất cứ đâu, bất cứ thời đại nào cũng phải tự học. Nhưng việc tự học của sinh viên không phải là một bộ phận của chương trình giảng dạy của đại học. Việc thi và chấm thi - Giáo sư tự ra đề, tự coi thi và tự chấm thi tất cả các lần thi giữa kỳ và hết môn. Phòng thi không cần tới 2 người coi. Bài thi không cần dọc phách. Cũng có đại học quy định kỳ thi hết môn đối với các môn học ở năm học đầu do một hội đồng của Khoa ra đề chung. Khi đó, điều kiện cần để hoàn thành môn học này là sinh viên phải đạt ít nhất 50% số điểm của kỳ thi hết môn. Điều kiện đủ thì do giáo sư tự quyết định. - Tất cả các bài thi đều là tự luận, không thấy dùng hình thức thi trắc nghiệm. Quyết định điểm của môn học - Như trên đã nói, mỗi giáo sư được quyền tự quyết định tỷ trọng của điểm bài tập về nhà, điểm của hai kỳ thi giữa học kỳ, và điểm kỳ thi hết môn. trong điểm của môn học. Giáo sư cũng có quyền cho phép hoặc không cho phép sinh viên được làm lại bài thi giữa kỳ và nộp cho giáo sư, nhằm ghi thêm điểm. - Chẳng hạn, tôi cho phép sinh viên làm như thế để ghi thêm tối đa là 1/3 số điểm mà sinh viên đó bị trừ trong lần thi giữa kỳ chính thức. Tôi nhận thấy rằng làm như thế sinh viên tự nhận ra sai lầm mà họ có thể đã mắc phải trong kỳ thi tốt hơn là để họ theo dõi đáp án của tôi. - Một số đại học ghi điểm cuối cùng của môn học bằng 11 bậc, dùng các chữ cái A, B, C, D, kèm theo có thể các dấu cộng hoặc trừ (nhưng không có A+). Một số đại học khác ghi điểm cuối cùng của môn học bằng 41 bậc, từ 0.0 tới 4.0. Việc chuyển thế nào từ điểm cuối cùng của môn học (chẳng hạn 355/400 điểm) sang thang ghi điểm này cũng do giáo sư tự quyết định. - Giáo sư tự lên điểm và gửi bảng điểm cho giáo vụ của đại học một cách trực tiếp, hoặc qua hệ thống thư tín trong đại học, đôi khi cũng có thể gửi qua thư ký của Khoa. Nếu còn lưỡng lự trong việc có nên đánh trượt hay không một sinh viên, giáo sư có thể thông báo trong bảng điểm nộp cho giáo vụ rằng trường hợp này chưa hoàn tất. - Sau đó, giáo sư có quyền đòi hỏi sinh viên ấy làm một số bài tập bổ sung, hoặc viết thu hoạch về một vấn đề liên quan đến môn học, trên cơ sở đó mà quyết định điểm môn học cho sinh viên này, rồi thông báo kết quả cho giáo vụ. Nếu bị đánh trượt, sinh viên sẽ phải học lại cả môn, không có chuyện thi lại. - Điểm là bí mật cá nhân của mỗi sinh viên. Điểm của mỗi sinh viên được giáo vụ chuyển vào trương mục riêng của sinh viên đó trong hệ thống internet của đại học. Giáo sư có thể thông báo điểm cho từng sinh viên, nhưng không được báo điểm của người này cho người khác. Sinh viên đánh giá giảng dạy - Cuối học kỳ, trước kỳ thi hết môn, mỗi sinh viên được phát một mẫu “đánh giá giảng dạy”. Sinh viên được nhận xét về những điều bổ ích hay chưa bổ ích của môn học, ưu điểm và nhược điểm của môn học, ưu điểm và nhược điểm của người giảng dạy. Giáo sư không được can thiệp vào đánh giá này. - Đây là một hình thức xả “stress” mà các đại học Mỹ dành cho sinh viên. Đại học cũng có thể, trong một chừng mực nhất định, dựa trên những đánh giá của sinh viên để thay đổi một phần nội dung môn học, khiến cho nó dễ được thu nhận hơn. Một số đại học thông báo lại cho giáo sư bản tổng hợp những đánh giá của sinh viên đối với bài giảng của giáo sư này. Theo Nguyễn Hữu Việt Hưng Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (For Fresman Y.K21)
Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ hay gọi tắt là Hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trong nền giáo dục của nhiều quốc gia trên thế giới. Nó còn được gọi là học chế tín chỉ để phân biệt với các phương pháp đào tạo ra đời trước nó như học chế niên chế, học chế học phần. Trên thế giới phương pháp này được áp dụng ở cả giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Lịch sử Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ ra đời vào năm 1872 tại Đại học Harvard, Hoa kì và sau đó được lan tỏa tới các nước khác, trước hết là các nước tây Âu từ những năm 1960 và hiện nay đã phổ biến trên toàn thế giới. Hiện nay có hai hệ thống tín chỉ được sử dụng rộng rãi là, Hệ thống Tín chỉ của Hoa Kỳ (the United States Credit System - USCS), được thực hiện từ những năm đầu tiên của thế kỷ XX và Hệ thống Chuyển đổi Tín chỉ của Châu Âu (the European Credit Transfer System - ECTS) được xây dựng từ khoảng năm 1985 và được Hội đồng Châu Âu công nhận như là một hệ thống thống nhất dùng để đánh giá kiến thức của sinh viên trong khuôn khổ các nước thành viên EU từ năm 1997. ECTS là hệ thống phát triển rộng rãi nhất và được sử dụng cả ở các nước không thuộc Hiệp hội Châu Âu. Định nghĩa về tín chỉ Hiện nay có khoảng hơn 60 định nghĩa về tín chỉ. Có định nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định lượng, có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh viên, có định nghĩa lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của một chương trình học. Một định nghĩa về tín chỉ được các nhà quản lí và các nhà nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam biết đến nhiều nhất là của học giả người Mỹ gốc Trung Quốc James Quann thuộc Đại học Washington. Trong buổi thuyết trình về hệ thống đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Khoa học Công Nghệ Hoa Trung, Vũ Hán mùa hè năm 1995, học giả James Quann trình bày cách hiểu của ông về tín chỉ như sau:Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần. Tín chỉ theo định nghĩa nói trên gắn với học kỳ 4 tháng (semester) được sử dụng phổ biến nhất ở Mỹ. Ngoài ra còn có định nghĩa tương tự cho tín chỉ theo học kỳ 10 tuần (quarter) được sử dụng ở một số ít trường đại học. Tỷ lệ khối lượng lao động học tập của hai loại tín chỉ này là 3/2. Để đạt bằng cử nhân (Bachelor) sinh viên thường phải tích luỹ đủ 120 - 136 tín chỉ (Hoa Kỳ), 120 - 135 tín chỉ (Nhật Bản), 120 - 150 TC (Thái Lan), v.v... Để đạt bằng thạc sĩ (master) sin viên phải tích luỹ 30 - 36 TC (Mỹ), 30 TC (Nhật Bản), 36 TC (Thái Lan)... Theo ECTS của EU người ta quy ước khối lượng lao động học tập ước chừng của một sinh viên chính quy trung bình trong một năm học được tính bằng 60 tín chỉ. Tại Việt Nam, một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Hiệu trưởng các trường quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần cho phù hợp với đặc điểm của trường. Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính theo đơn vị học trình, thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ. Một tiết học được tính bằng 50 phút. Ưu điểm của học chế tín chỉ 1. Phương thức đào tạo theo tín chỉ lấy người học làm trung tâm trong quá trình dạy và học, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. 2. Phương thức đào tạo theo tín chỉ có độ mềm dẻo và linh hoạt về môn học. 3. Phương thức đào tạo theo tín chỉ có độ mềm dẻo và linh hoạt về thời gian ra trường. 4. Tạo được sự liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau của cùng một trường đại học hay xa hơn nữa là giữa các cơ sở đào tạo đại học giữa quốc gia này với các quốc gia khác trên thế giới. 5. Phương thức đào tạo theo tín chỉ đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo. 6. Vừa là thước đo khả năng học tập của người học, vừa là thước đo hiệu quả và thời gian làm việc của giáo viên. 7. Có lợi không những cho tính toán ngân sách chi tiêu nội bộ của nhà trường mà còn cả cho việc tính toán để xin tài trợ từ nguồn ngân sách nhà nước và các nhà tài trợ khác. 8. Phương thức đào tạo theo tín chỉ là cơ sở để báo cáo các số liệu của trường đại học cho các cơ quan cấp trên và các đơn vị liên quan Nhược điểm của học chế tín chỉ 1. Cắt vụn kiến thức. 2. Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên. Thang điểm trong hệ thống tín chỉ 1. Thang điểm chữ Hiện nay các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Anh, Úc hay Singapore đều áp dụng cách tính điểm theo hệ chữ chữ gồm 5 mức cơ bản A, B, C, D, F. Ở từng quốc gia lại có cách chia nhỏ mỗi mức thành các mức điểm khác nhau như A+, A, A-… cách quy đổi này hạn chế tối đa "range" (khoảng cách giữa 2 mức điểm) và giúp cho sinh viên được xếp loại đúng hơn.Tại Trường Đại học Quốc gia Singapore, điểm của sinh viên sẽ được qui đổi từ hệ 10 hoặc 100 sang hệ điểm chữ A, B, C…. Điều này có nghĩa, thông thường điểm của sinh viên vẫn được tính theo hệ 10 hoặc 100. Điểm này được gọi là raw mark (điểm thô). Đến cuối kỳ, điểm của sinh viên sẽ được quy ra theo hệ A, B, C… nhằm mục đích xếp loại. Mục đích chuyển từ hệ 10 hoặc 100 sang hệ chữ A, B, C… là nhằm mục đích xếp hạng, điều mà hệ điểm số không phản ánh hết. 2. Thang điểm 4 Nếu như thang điểm chữ A,B,C,D dùng để xếp hạng thì hệ 4.0 dùng để tính điểm trung bình cho sinh viên, đơn giản cho việc xét học bổng, điều kiện tốt nghiệp hay xếp loại tốt nghiệp. Ở một số nước không sử dụng thang điểm 4 mà sử dụng thay thế bằng thang điểm 5. |
|